Thầy cô và các bạn thân mến, qua hai phần viết trước đây, ta đã được tác giả Quang Nguyên hướng dẫn đến các địa điểm: Rạch Vược thuộc xã Thuận Yên (Hà Tiên) và con đường từ những năm xa xưa đi từ Hòn Chông về Hà Tiên, qua các địa danh Bãi Ớt, Hòn Heo, Thuận Yên và Tô Châu mà trên con đường nầy ta đã tình cờ đặt chân lên nhiều nơi có liên quan đến vài cảnh đẹp của Hà Tiên ngày xưa…(đó là cảnh « Châu Nham Lạc Lộ » ở Bãi Ớt, cảnh « Lư Khê Ngư Bạc » ở Rạch Vược và cảnh « Nam Phố Trừng Ba » ở bờ biển nơi hai ngọn núi Tô Châu kết thúc. Trong phần II nầy, tác giả sẽ bày tỏ cho chúng ta biết một cách rỏ ràng lối đi dòng chảy của con rạch mang tên Rạch Vược (hay Rạch Núi hay kênh Núi Nhọn): Ngày xưa thì con rạch nầy thông ra biển nơi gần Mũi Gành, sau đó đoạn rạch nầy đã bị lấp đi để làm đường lộ liên tỉnh (1943), con rạch uốn khúc trong phần đất thuộc vùng quê cha đất tổ của tác giả và sau đó chia làm hai nhánh tại ngã ba gọi là Ngã Ba Vàm Cui (Giồng Cui) để rẽ trái thành con rạch mang tên Rạch Cái Tắt đi luôn xuyên qua kênh Hà Tiên-Rạch Giá tạo thành ngã tư mang tên Ngã Tư Đèn Đỏ, nhánh kia còn quyến luyến đất quê nhà nên quay lại uốn éo cập về Núi Nhọn trước khi đi thẳng ra nhập vào con kênh đào Hà Tiên-Rạch Giá mà nếu ta đi theo con kênh nầy một khúc nữa theo phía Hòa Điền thì sẽ tới « Cản Cờ Trắng »… Nếu thầy cô và các bạn có đọc các quyển sách nghiên cứu về Hà Tiên của học giả Trương Minh Đạt thì sẽ hiểu rỏ vì sao ngày xưa muốn đi từ Hà Tiên sang Rạch Vược (Thuận Yên) để câu cá như lối hưởng nhàn của thi sĩ Mạc Thiên Tích thì chỉ có hai cách đi: trước hết phải mua một chiếc xuồng (ghe) giống như trong bài dưới đây Quang Nguyên có kể cho chúng ta việc đi mua xuồng nầy, sau đó nếu có gan thì dùng xuồng đó chèo ra cửa biển Hà Tiên, rồi quẹo trái hướng về Nam Phố, nhắm Mũi Gành tiến tới thì sẽ thấy cửa vào Rạch Vược sau Mũi Gành, mình nói có gan vì đi kiểu nầy sẽ gặp chút đỉnh sóng gió (bởi vậy ông Mạc Thiên Tích mới đặt tên cho bài thơ của ông là « Nam Phố Trừng Ba »…!!), còn nếu muốn đi một cách an nhiên tự tại thì chèo ghe đó về phía Đông Hồ rồi quẹo phải nhập vào đầu kênh Hà Tiên-Rạch Giá, chèo một khúc thì sẽ gặp « Ngã Tư Đèn Đỏ » là quẹo phải luôn đi vào con rạch Cái Tát chèo luôn đến Ngã Ba Vàm Cui thì quẹo nhẹ bên phải nữa thì vào Rạch Vược…Chính thật trên dưới 240 năm sau khi ông Mạc Thiên Tích đã dùng con đường thủy nầy đi Rạch Vược câu cá mà hai cha con tác giả Quang Nguyên cũng đi đường thủy nầy đem chiếc xuồng « lườn » về để chở lá dừa nước cất nhà. Đó là câu chuyện bên dòng Rạch Vược mà nếu thầy cô và các bạn muốn vừa tìm hiểu địa lý vùng nầy vừa nôn nao để biết sinh hoạt trong những năm gặp khó khăn của gia đình Quang Nguyên ra sao, mời thầy cô và các bạn đọc bài tiếp theo dưới đây, câu chuyện rất hay đầy tính chất đồng quê theo kiểu « miền đồng bằng sông Cửu Long » tuy không kém phần thực tế đầy gian nan trắc trở của một thời kỳ mà không ít những gia đình « bên nầy » phải dùng tay chân của mình để còn được tồn tại với xã hội…(Trần Văn Mãnh viết lời dẫn, Paris 21/03/2021).
I/ Lư Khê Ngư Bạc và đường Hòn Chông
II/ Rạch Vược và các con rạch chung nước:
C – Chị em Rạch Vược – Cái Tắt:
Phần trước là tôi viết về “Tàn Tích Lư Khê” và “Đường Hòn Chông’ đầy hoài niệm, giờ tôi viết tiếp về “Dòng Rạch Vược”. Nghe hơi kỳ kỳ? Bởi Lư Khê là Rạch Vược mà? Ồ! Các bạn không sai, nhưng chậm lại một chút để tôi nói rõ ý của mình: Lư Khê là tên “chữ nghĩa” mà người xưa dùng, nó được “đóng đinh” với thập cảnh danh tiếng của Hà Tiên, còn trong phần này tôi chỉ nói về con rạch “thuần nôm” mang tên Rạch Vược, nơi quê cha đất tổ, nơi tôi đã ở đây khi còn nhỏ, và là nơi tôi đã có những năm tháng đầy ắp kỷ niệm cơ cực của một quãng đời tạm bợ tiếp diễn, dẫu rất ngắn ngủi nhưng mình phải liên tục chiến đấu chống đỡ với vô vàn khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, mà nếu quên những năm tháng cơ cực đó tôi sẽ là kẻ phản bội “bắn vào quá khứ”của mình…
Khi bạn đi vào con đường bên hông Đình Thuận Yên để vào các khu vườn bên trong sau mõm núi Đồn là bạn đang đi trên phần đất của ông bà tôi để lại… Cái nền Đình Thuận Yên là của bà nội tôi hiến tặng làng xã xưa kia xây dựng Đình Thần Hoàng để bà con có nơi cúng Kỳ Yên, còn ngôi chợ Thuận Yên là cha tôi noi gương ông bà nội mà hiến đất cho dân chúng có nơi họp chợ vào năm 1995, từ đó có một nơi gọi là “Chợ Thuận Yên” hoàn chỉnh, được nằm gọn trong “cục đất thịt” gần 1000 mét vuông mà mấy cha con gia đình tôi bao năm cày cấy; chứ trước đó dân làng tự họp “chợ chồm hổm” rồi mua bán ở ven lộ, hay ven bờ biển….
Trên con đường nhỏ bên hông Đình này đi sâu chừng 200 mét bạn sẽ thấy dòng Rạch Vược tiệm cận với con đường sau một khúc uốn lượn, đoạn tiệm cận kéo dài trăm mét để đến Doi đã nói ở phần trên. Đến đây, dòng Rạch Vược từ giã con đường vườn mà cong sang hướng khác…
Ba bức ảnh làm thành tựa bài : »Từ những bức ảnh trăm năm ». Hình trên: « HATIEN: Pont de Rach-Vuoc (Thuan Yen), 3km500 du chef-lieu. 1920-1930 » (Cầu Rạch Vược, Thuận Yên, cách Hà Tiên 3,5 km). Hình giữa và dưới: « Cochinchine, HATIEN: Route de Hon Chong 1902-1901 ». Ba tấm hình nầy đều được chụp cùng một quang cảnh, đó là Rạch Vược với chiếc cầu sắt. Hình sưu tầm.
Đến đây ký ức ùa về khiến tôi phải kể sang một câu chuyện khác về Doi:
Con đường mòn này chẻ hai tại đây, nhánh trái vào các khu vườn của cư dân Thuận Yên, nhánh phải cũng băng ngang các khu vườn mà thẳng tiến đến Núi Nhọn. Nếu ai đã là cư dân Hà Tiên chạy giặc qua đây trong khoảng thời gian từ 1977 sẽ biết rằng Đình Thần Hoàng là khu vực quần cư của rất đông người tị nạn, ba tôi đã cho rất nhiều có đến mấy chục hộ ở tạm trên đất nhà vì chiến tranh loạn lạc thì sự thống khổ là như nhau.
Một cái chợ “chồm hổm” (đã nói trên) hình thành trên con lộ 80 trước đình Thuận Yên kéo dài xuống cái cống Lộ Đứt, hàng ngày chính quyền xã phải đưa quân xuống dẹp chợ để giữ trật tự, mà dẹp đi đâu khi người dân không có cái chợ mà lại rất cần? Cho nên cũng dẹp, cũng bắt bớ, cũng tịch thu, cũng chế tài… Nhưng, mèo vẫn hoàn mèo. Cái chợ này của bao gia đình và cũng là nguồn sống tạm bợ của gia đình chúng tôi, hàng ngày hai anh em chúng tôi sau khi thu xếp xong các việc học hành đồng áng là lấy chiếc xe cây (mà trước đó dùng để xe nước mướn ở Hà Tiên) để mang hàng hóa mà các xe đò bỏ xuống bằng cách đẩy tay về nhà theo yêu cầu của người thuê. Phải nói là chúng tôi trở thành trụ cột của gia đình rất sớm từ ngay khi 10 tuổi, vì ba tôi sau khi đi “học tập” về khó có thể làm việc gì chính thức hoặc ổn định; cứ vài ba tháng ông lại phải đi “ôn tập tập trung” một thời gian, nên lúc có thể ba tôi sắp xếp công việc gì cho gia đình là sau đó “hai thằng đàn ông nhí” tiếp tục đảm trách; má tôi thì cố gắng dạy học thật tốt để ba tôi “trong ấy” được điểm cộng… Ôi! Cái chuyện thời cuộc thiệt là dài và nhiều đoạn nhiêu khê lắm. Mà thôi, chuyện đó để khi khác!
…Người di tản về đây đông lắm, chưa bao giờ trong suốt lịch sử thành hình đất Rạch Vược mà có nhiều dân quần tụ nơi đây như khi ấy, họ tràn xuống biển và kéo dài qua cả núi Đồn để ở … Phát sinh vấn đề cơ bản là nước ngọt để uống vì người ta chưa chuẩn bị cho tình huống này. Mà hay lắm kia, các căn nhà sát dưới biển họ chỉ cần đào một cái lỗ rồi đặt cái thùng phuy cắt đáy xuống là có nước trong vắt để sử dụng, những hộ ngoài biển đối diện núi Đồn thì nước ngọt hơn và uống được hẳn hòi. Vậy đó nhưng vẫn chưa đủ cho người dùng, lại có thêm các giếng nước ngọt rất xưa của người kỳ cựu của Rạch Vược cung ứng. Trong các giếng này, phải kể đến giếng nước ngay sau Đình Thần Hoàng của nội tôi mà mùa kiệt nước cả xóm phải xếp hàng vét từng ca nước mọi, được cái nước ra hoài quanh năm suốt tháng. Đi sâu vào trong đường vườn thì có giếng bà Hai Ánh nổi tiếng là “ngon” nhất, ao vườn hay các giếng trong vườn của anh Hai Lý, anh Tư Cẩn, ông Ba Len, ông Năm Tốt … đều cung cấp cho dân dùng, sở dĩ tôi biết rõ vì bản thân tôi phải đi gánh nước, tôi gánh cũng “dịu dàng” lắm, cũng đòng đưa thả lỏng vai và cánh tay đánh theo nhịp võng của đôi thùng nước hai đầu, để nước không sóng sánh văng ra và để bước đi của mình nhẹ nhàng khoan thai hơn… Chỉ mỗi chuyện nước uống được sẵn sàng sẻ chia trong bao nhiêu sự giúp đỡ của cư dân kỳ cựu, đã nói lên rằng tinh thần tương trợ của người dân Rạch Vược thật tuyệt vời, lưu dân tứ xứ về đây được tiếp đón khác nào người bản địa?
Sau khi “từ giã” Doi, thì dòng Rạch Vược chảy thẳng đến “Vàm Cui” mà trước khi chính thức đến Vàm Cui nó còn kịp làm một cái ngoặc ẹo khác như một cô gái dỗi hờn, đoạn này không biết nay ra sao chứ trong thập niên 70 – 80 thì hai bên đều toàn dừa nước, thỉnh thoảng phía bên trái con rạch (hướng về Vàm Cui) ta thấy ẩn hiện một con đường mòn. Đó là con đường sau trường Rạch Núi, vòng sau núi Thanh Hòa, và đi riết nó sẽ trổ ra sau lưng Trung Tâm và vùng đất đầm lầy rừng lá vùng Ngã Tư kênh xáng Hà Tiên Rạch Giá, sau lưng núi Đại Tô Châu rồi cuối cùng là vùng Thất Cao Đài giữa vùng núi Đại Tô Châu và Tiểu Tô Châu… Con đường này rất nhỏ, năm xưa chỉ là con đường mòn người đi, những năm đói kém anh em chúng tôi đã “hành quân” trên những con đường này với cái chài lưới trên tay để kiếm cá kiếm tép trong mấy con mương nho nhỏ dẫn nước từ sông rạch vào. Cũng có những ngày chúng tôi vác dao vắt búa đi kiếm củi khô hay củi tươi về đun nấu (bởi “lò đã nóng, củi tươi cũng cháy”!). Cũng bằng con đường này chúng tôi đã đi “khám phá” các ngọn núi chung quanh Thuận Yên và Tô Châu mà khi về thế nào cũng đầy ắp sản vật thiên nhiên mà má tôi không phải kiếm tiền để mua từ chợ; và cũng chính vì “từng trải” vậy mà hôm nay tôi mới có thể kể lể dài dòng về cuộc đất chung quanh Rạch Vược này.
Vàm Cui, chỗ này năm xưa được mở rộng ra vì đó là ngã ba của hai con kênh tự nhiên là kênh Rạch Vược và kênh Cái Tắt. Dòng Cái Tắt nằm bên trái của Rạch Vược từ Doi ra, nước chảy mạnh ngoằn ngoèo rồi đổ ra Ngã Tư Đèn Đỏ, còn Rạch Vược sau khi gặp Cái Tắt nó làm một việc thuận theo ý tự nhiên và công bằng của tạo hóa, là vay (hay trả) một phần nước của Cái Tắt rồi nó đi tiếp qua Núi Nhọn… Ngay ngã ba này có một vùng đất giồng cao phía trên có mấy cây dừa cổ, đất đai mầu mỡ canh tác được gọi là Giồng Cui. Bởi thế, nếu tại địa điểm này nếu có người nào đó gọi là Vàm Cui, thì sẽ có kẻ lớn tiếng cãi lại: “là Giồng Cui!”, rất tiếc là cả hai đều… đúng! Vì dưới nước có “vàm”, còn trên có “giồng”, cả thảy đều mang tên “Cui”. Còn tại sao mang tên “Cui” thì tôi không biết.
Hai con kênh chị em Cái Tắt và Rạch Vược đều uống chung một nguồn nước Đông Hồ và kênh xáng (Rạch giá- Hà Tiên) mà khác nhau đến lạ. Em Cái Tắt thì hẹp hơn chút nhưng nước sâu hơn, màu nước nâu hơn, dòng chảy mãnh liệt hơn, ít cong cớn làm dáng hơn, tính tình dứt khoát nhanh nhẹn, đi một phát là cô em ra tới Ngã Tư Đèn Đỏ. Cô chị Rạch Vược thì thướt tha, chảy êm đềm, quanh co uốn lượn… Phải nói là khi bắt đầu từ biển vào là chị đã vờn cái mũi của anh Gành (Mũi Gành) rồi liếc mắt với anh Núi Đồn, đi song hành cùng anh Thanh Hòa. Chị chàng tiếp tục ve vãn anh Núi Nhọn riết rồi mang danh kênh Núi Nhọn luôn như mặc nhiên công nhận chị là của anh ấy! Ấy vậy mà không biết cách nào đó chị còn dòm ngó anh Núi Đồng? Cho nên chị ấy bị anh Nhọn lo sợ ôm sát vào còn anh Đồng thì với tay níu kéo. Để vừa lòng cả hai chị đã nhận chút nước của anh Nhọn, tí phèn của anh Đồng làm cho đoạn này của chị phình to ra đồng thời dòng nước đã đổi màu xanh ngọc rất lạ… Bởi cái tính đòng đưa và đặc biệt chuyên xàng xê với mấy anh núi mà người dân xưa của xứ này còn chốt danh chị là “Rạch Núi”. Chị đỏng đa đỏng đảnh, nhỏng nhảnh nhởn nhơ, vừa đi vừa làm thơ, lơ ngơ lạc lối, đi đến tối rồi cũng trổ ra kênh đào Hà Tiên Rạch Giá mà ở hướng Cản Cờ Trắng, cách nàng em Cái Tắt hơn hai cây số ngày nào cũng đứng chờ từ sáng đến đêm ở Ngã Tư Đèn Đỏ…
Kể từ đó chị có quá nhiều tên mà tên nào cũng là chị: Rạch Vược, Rạch Núi, kênh Núi Nhọn.
Sơ đồ vùng xã Thuận Yên (Hà Tiên) nơi có dòng Rạch Vược chủ đề của bài viết. 1/ Núi Tiểu Tô Châu. 2/ Núi Đại Tô Châu. 3/ Núi Thanh Hòa Tự. 4/ Núi Đồn. 5/ Núi Nhọn. 6/ Núi Đồng. 7/ Rạch Cái Tắt. 8/ Rạch Vược. 9/ Mũi Gành, chùa Sơn Hải. 10/ Ngã Ba Vàm Cui, Giồng Cui. 11/ Ngã Tư Đèn Đỏ. 12/ Kênh Hà Tiên-Rạch Giá
Sơ đồ vùng xã Thuận Yên (Hà Tiên) nơi có dòng Rạch Vược. 1/ Chợ Thuận Yên. 2/ Đình Thần Thành Hoàng. 3/ Núi Đồn. 4/ Ngã Ba Vàm Cui, Giồng Cui. 5/ Chùa Sơn Hải. 6/ Núi Thanh Hòa Tự.
Chùa Sơn Hải thuộc Ấp Rạch Vược, xã Thuận Yên (Hà Tiên). Hình: Khanh Lam, 2015
… Tôi còn nhớ rõ vào năm 1977, khi chiến tranh biên giới nổ ra, Hà Tiên sơ tán, gia đình tôi chạy về Thuận Yên nơi miếng đất của tổ phụ phía sau Đình, cách Doi chừng trăm mét. Việc đầu tiên là ba tôi cất căn nhà nhỏ bằng lá dừa nước trên nên đất của căn nhà cũ của nội xưa kia. Nhà không có tiền nên ba tôi chỉ mua được một phần cây tràm đủ làm hai mái nhà mà không có vách, căn nhà nhỏ xíu lối 30 mét vuông, chỉ kê giường chõng tre mà cả nhà 10 người lăn lốc trên đó trong một thời gian ngắn.
Lá dừa nước lợp nhà tạm thời được đốn từ các bụi dừa nước mọc dại sau nhà nên không đủ đâu vào đâu, nhà có sác lá khá rộng nhưng nằm ở Vàm Cui, ba cha con đi đốn rất nhiều lá nhưng không có phương tiện đưa về… Ba tôi mới nghĩ cách, và rồi ông mượn tiền đi kiếm mua được một chiếc xuồng “lườn”, là loại độc mộc lên hai be, dài chừng hơn 7 mét, chỗ rộng bụng chừng 1,5 mét và dùng chèo chiếc để chèo, nó khá to cho cả hai là xuồng và chèo, làm chủ được cây chèo to và điều khiển được chiếc xuồng lườn nặng này không phải là chuyện đơn giản. Đây là chiếc xuồng chuyên đi thăm đáy của ai đó ở Cầu Câu, nó được dùng ở cửa biển Hà Tiên chịu được với sóng to và dữ. Cái ngày đi lấy chiếc xuồng có ba và tôi, tôi thật ngưỡng mộ ông khi loay hoay quay vài vòng với chiếc xuồng nặng nề mà rồi ông cũng làm chủ được nó, tôi hỏi ông “sao ba biết chèo vậy?” ông trả lời rằng “ông nội dạy!”. Ông đã nhanh chóng chấp nhận sự thay đổi của cuộc đời để bước sang một phần đời khác đầy gian nan, mà cho đến ngày hôm ấy ông cũng như mọi người trong hoàn cảnh của ông chưa ai biết trước được cái gì chờ đợi mình phía trước! Chỉ mới 11 tuổi thôi mà tôi ngày hôm ấy đã học được thêm bài học đương đầu với nghịch cảnh từ ba tôi “gặp thời thế, thế thời phải thế” đó. Cũng như vừa hơn một năm trước đó thôi tôi cũng đã học những cách mà má tôi phải chèo chống con thuyền gia đình chở tám đứa con vượt sóng dữ cuộc đời khi ba tôi còn “ở trỏng”.
Bài học đó là: Ý Chí Vượt Khó.
Cuối cùng, ông cũng làm chủ được chiếc thuyền đưa cái mũi của nó chậm chạp chồm chồm trên sóng mà thẳng tiến vượt đầm Đông Hồ hướng về Rạch Vược. Ông chèo rất nhịp nhàng, bước tới bước lui khoan thai, cây chèo bản to gần một gang tay, dài hơn 3 mét nó gọn gàng trong từng bước tới đẩy xoáy, bước lui rẽ nước, khiến cho tốc độ ngày càng được cải thiện… Sau khi vượt Đông Hồ là vào dòng kênh xáng, dòng kênh xáng này trước khi đến Ngã Tư Đèn Đỏ đã làm ta khó định vị, bởi bờ trái (là phía Cừ Đứt) nước luôn tràn ngập, cứ men theo bờ phải với rừng dừa nước cặp bên Thất Cao Đài có cái biên với mép nước thẳng tưng mà đi thì đó là lòng sâu của dòng kinh xáng.
Rẽ phải ngay cái ngã tư thủy lộ là ta vào rạch Cái Tắt, con rạch này cũng loanh quanh bởi nó là con rạch tự nhiên, đi thêm một chút là ba tôi chỉ cho biết cái “sác lá” của nội để lại, cũng khá rộng và đầy dừa nước, nó kéo dài đến ngay ngã ba Vàm Cui và còn quanh qua Rạch Núi một đoạn về Núi nhọn… Trong những ngày tháng đó chúng tôi thường vào đây để đốn là dừa nước, xé soàng soạt tàu dừa làm hai đều đặn rồi bó lại thành từng chục tàu với hai cái bề gáy phô ra thẳng thóm, lấy “cù bắp” là ngọn chưa nở lá, xé ra rồi dung mũi dao để tách sống lá còn non để lấy “lạt” buộc, sau đó phải “lòi” lá đã bó ra bờ rạch từ sâu trong sác lá, nơi không có chút ánh nắng lọt vào, muỗi thì quơ cả nắm, bùn thì ngang đầu gối, còn các bọp dừa chĩa tứ tung ngang dọc… Công việc gian nan vô cùng mà không mấy chốc mấy cha con chúng tôi nhuần nhuyễn như những người đổ lá chuyên nghiệp.
Và sau ngày ấy ba tôi cất xong cái nhà sơ tán bằng lá dừa nước trên cái nền nhà năm mươi năm trước đó của ông bà tôi…
Các con rạch Cái Tắt và Rạch Vược ngày ấy có nhiều sản vật, nó đã cung cấp cho chúng tôi bao nhiêu là món ăn không tốn chút tiền chợ cho nhà mười miệng ăn…
Mùa mưa là mùa của con ốc len, chỉ cần vào đầu mùa mưa chừng mươi ngày là bạn có thể thưởng thức được món “ốc len kèn dừa” trứ danh của người Hà Tiên, nấu phải có chút sả chút nghệ, nước cốt dừa, cùng trái đu đủ “mỏ vịt” … Con ốc len chỉ được bắt những con đang leo lên bọp hoặc tàu dừa nước, tuyệt đối không bắt con đang bò dưới đất vì nó sẽ dơ đầy cát và… Mà thôi! Ăn chi cho khổ vậy? Cứ lựa các con mập to leo cây mà bắt ăn cho ngon!
Các bạn có biết “hội ba khía”? Tôi chắc không mấy người biết ngoài những con dân vùng rừng sác. Tôi không nhớ rõ tháng mấy ở Rạch Núi và Cái Tắt có ba khía hội, nhưng phải nói là ba khía nhiều vô kể vào đêm đó. Kể cũng lạ, chuyện yêu đương của chúng cũng không thể vào thanh thiên bạch nhật. Vào đêm 30 âm lịch của một mùa trong năm, các chàng các nàng ba khía tìm kiếm nửa kia của minh, việc lãng mạn đó cần nhanh chóng trước khi trời sáng nên chúng “tranh thủ” lắm, chúng có thể hẹn thề trên bọp dừa, dưới bãi bùn, trong bụi ô rô gai góc, trên rễ cây đước chằng chịt… Đã phải tranh thủ mà chắc nhiều khó khăn, có lẽ chúng phải nói với nhau rất nhiều câu yêu đương tỏ tình mới đốn ngã đối tượng hay sao ấy vì tên nào cũng sùi bọt mép? Chúng ta chỉ việc lấy cái can 30 lít cắt lỗ miệng, một cây đuốc dầu để soi, ba khía thấy đèn sẽ đứng yên hoặc giương càng, thấy nó dữ dằn vậy chứ bạn đừng ngại, cứ chụp nhanh một phát, bảo đảm nó sẽ không kịp làm gì bạn vì nó còn đang ngây ngất hương tình, còn sợ bị kẹp thì bạn chỉ cần trang bị thêm một đôi bao tay vải… Một đêm một người chuyên nghiệp có thể bắt hai đến ba thùng 30 lít đó. Đương nhiên ngày thường cũng bắt được ba khía nhưng ít hơn.
Ven các con rạch chúng ta còn bắt được con vọp, người bắt vọp chỉ việc đeo một cái giỏ rồi men theo bờ nước, đu các nhánh dừa nước và đạp xuống bùn chung quanh các gốc dừa nước nếu thấy cộm tròn lòng bàn chân thì chắc mẫm bạn đã bắt được con vọp. Đi trong sác lá bạn cũng có thể bắt được vọp. Bạn có bao giờ nghe tiếng kêu của nó chưa? Giật nẩy cả người nếu bạn đang ở trong rừng sác âm u mà nghe những tiếng to, rõ, vang xa “Cốp…Cốp”, đó là tiếng vọp mở miệng. Vọp Rạch Vược ngon ngọt, thịt không ngon bằng nghêu nhưng được cái thịt rất đầy và to, có con nguyên vỏ to bằng cái chén ăn cơm thì thịt của nó đầy cả vá canh (giờ thì không thể có), bạn có thể luộc sơ gỡ thịt rồi nấu canh rau “tạp tàng” mà bạn hái nhặt chung quanh các ngọn núi nơi đây, hoặc bạn có thể nướng mỡ hành với chút đậu phọng rang đập vỡ lộm cộm, hay đơn giản chỉ luộc cho nó há miệng rồi chấm muối tiêu (phải là tiêu Hà Tiên nhé! Bảo đảm cực kỳ ngon!) để thưởng thức trọn vẹn hương vị của nó…
Ngày ấy hàng đêm ba tôi đi chài, kinh nghiệm thời thơ ấu khi ông còn là con của một ngư dân Rạch Vược được ông đem ra “xài’ cho thời cuộc, và ông đã dạy lại cho chúng tôi… Chèo chiếc xuồng lườn dọc con kênh Rạch Vược, có đêm chúng tôi ra đến ngã ba Kênh xáng, ông dạy tôi chèo để ông chài, dù không chuyên nghiệp nhưng ông chài cũng tròn lắm, đủ để bắt được cá tôm để hôm sau nhà tôi có cái ăn… Cơ khổ, ba tôi bị thương hư một mắt trong thời gian chiến tranh, nên việc nhìn ngắm và thăng bằng không tốt, mà chài thì đứng trên mũi thuyền nên ông thường xuyên té xuống kênh, vì thế tôi phải tập chài để thay ba khi ba mệt. Kết quả, tôi là đứa con duy nhất trong tám đứa của ông vừa biết chài vừa biết chèo.
Đi chài đêm tôi mới biết thế nào là “hội đom đóm”, không biết cơ man nào là đom đóm, hàng ngàn con bay chập chờn, hàng vạn con đậu chấp chóa trên các cây bần ven kênh, chỉ đặc biệt là cây bần (các cây giống khác cũng có đom đóm nhưng không hội nhiều bằng cây bần). Đom đóm bay ví như hàng vạn vì sao trong đêm trong vắt. Đom đóm đậu như vạn ngọn đèn lung linh chớp nháy lộng lẫy một màu trắng xanh nhẹ trên các hàng cây trong đêm Noel… Đó cũng là đêm hẹn hò của chúng, mà cuộc hẹn hò của côn trùng lãng mạn hơn ta hình dung, phải chi các bạn được chứng kiến mới hiểu và cảm nhận được cái cảm xúc làm cho người ta đã phải bật ra mà thốt lên rằng:
“Nước ròng kênh cạn chèo buông
Bần gie đóm hội, anh buồn nhớ em…”
hay là:
“Bần gie đóm đậu sáng ngời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên”
“Đóm đeo thủy liễu đôi chùm
Biết ai nhơn đạo chỉ giùm làm ơn”
Con rạch Cái Tắt và Rạch Vược đã để lai trong tôi quá nhiều ký ức đậm sâu mà nhắc lại chuyện bốn mươi lăm năm như mới hôm qua…
Quang Nguyên – 03/2021
Bên dòng Rạch Vược (Thuận Yên, Hà Tiên), bên phải là cây cầu sắt ngày xưa, nay đã biến mất, phía xa bên phải là ngọn núi Đồn. Hình năm 1902 (Sưu tầm)
(Còn tiếp. Mời các bạn đón đọc II. Phần D)