Thầy cô và các bạn thân mến, trong bài trước: « Ký ức về chùa Phật Đường Hà Tiên – Phần 1 (1966 – 1967) », tác giả có nói qua về một người khách không quen không lạ đến chùa vào một thời điểm nào đó…Hôm nay qua bài ký ức phần 2 tiếp theo nầy, chúng ta sẽ có dịp biết qua hoàn cảnh xuất hiện của người khách không quen không lạ đó và một quan hệ tình bạn nảy ra như thế nào, thật ra khi đọc bài chúng ta cũng không thể xác định được mối quan hệ đó là tình bạn hay một thứ tình cảm nào đó…Hãy để tâm hồn được tác giả dìu dắt đi theo cuộc du ngoạn viếng thăm Thạch Động, Mũi Nai, Bãi Nò và cứ đóng vai như là tác giả, các bạn sẽ tự cảm nhận lấy…Chả trách gì thi sĩ Đinh Hùng đã viết vài câu thơ để cố giải thích tâm trạng ấy…
… »Ta run sợ, cho yêu là mệnh số
Mặc tay em định hộ kiếp ngày sau
Vì người em có bao phép nhiệm mầu
Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc »…
Không thể chờ được nữa, ta hãy bước ngay vào bài đọc để cùng hòa nhập với tác giả…(Paris, thứ ba 09/11/2021, TVM viết lời giới thiệu!)
Ký ức về chùa Phật Đường Hà Tiên – Phần 1 (ANH HOA)
A/ Chùa Quảng Tế Phật Đường:
B/ Nhân duyên hội ngộ:
C/ Nói về cô Năm và cô Tư Thọ:
D/ Hậu liêu chùa Phật Đường:
E/ Lý Mạnh Thường và người khách không quen, không lạ:
F/ Nói về Mạnh Thường:
G/ Quảng Tế Phật Đường và nén tâm hương:
Ký ức về chùa Phật Đường Hà Tiên – Phần 2 (ANH HOA)
(Lời kể về một kỷ niệm xa xưa trong những năm tháng tá túc tại chùa Phật Đường Hà Tiên, 1966 – 1967)
A/ Bữa cơm chiều:
Sau giờ tan học chiều, tôi tạt ra chợ mua tờ báo (sạp báo của anh Minh Xuân). Khi về tới chùa, theo lối cổng sau, là Tri chạy ra mừng rỡ báo tin :
- Thầy ơi có cô Hai từ Rạch Giá mới qua.
Nói rồi Tri lẹ chân trở vào chùa, tôi bước theo Tri, nhìn quanh mà không thấy có người khách nào ngoài cô Năm đang ngồi ăn trầu trên chõng như mọi khi. Tôi chào cô Năm rồi vào phòng cất tập sách, tờ báo và làm những việc cần thiết trước khi dùng cơm chiều với cô Tư. Cũng không lâu sau đó, Tri đến gõ cửa :
- Thưa thầy, bà Cô mời thầy ăn cơm.
Tôi bước ra khỏi phòng là thấy một thiếu nữ đang chuyện trò với cô Tư bên bàn ăn. Tôi nghĩ thầm :
- Bữa cơm chiều nay có người khách lạ, như Tri vừa báo, là đây rồi !
Tôi vừa mới đến bên bàn là cô Tư giới thiệu :
- Đây là Hà cháu của cô, từ bên Rạch Giá mới qua thăm cô. Đây là Thái, thầy của Tri, thầy Thái ở đây để tiếp cô dạy dỗ Tri. Thôi cô mời hai đứa ngồi vào bàn đi.
Tôi chỉ cho Tri ngồi bên cạnh giữa tôi và Hà, thế là chúng tôi mời cô Tư và mời nhau. Trong bữa cơm, nhờ chuyện kể của cô Tư nên bữa ăn rất thân thiện. Cô cũng nói thời còn trẻ, cô cũng ham vui, ham đi đó đây như mấy đứa con bây giờ. Tính lại thì cũng hơn 50 năm rồi đó; cô cũng nói là thời gian qua mau và cuộc sống của con người thì ngắn ngủi. Tôi thấy Hà chăm chú nghe chuyện kể của cô Tư, còn tôi thì có lúc nhìn trộm Hà: Nhìn khuôn mặt, rồi nhìn mái tóc đen dài óng ả buông xuống hai bờ vai, đôi mắt, đôi môi và để ý đến nụ cười.
Rồi cô Tư chợt nói :
- Sao hai đứa không nói gì hết vậy ! để cô nói một mình sao ?
Chúng tôi bật cười, nhưng rồi tôi liền nói :
- Mấy khi được nghe cô Tư kể chuyện, tâm sự vừa hay vừa để học hỏi kinh nghiệm.
Tôi chờ Hà góp ý và bắt gặp cái nhìn mỉm cười của Hà. Để góp chuyện với cô Tư cũng như thay lời Hà, tôi có câu hỏi :
- Trải qua thời gian của tuổi thanh xuân, như lời kể của cô, cô có cho tụi con lời khuyên nào không ?
- Câu hỏi nầy cô chưa biết trả lời sao, mà cô nghĩ, trong tình cảm không có gì tốt hơn là sự chân thật, chân thật trong cách đối xử, chân thật trong lời nói. Quý trọng nhau là ở chỗ đó.
Quả thật, lời dạy của cô Tư thật là ý nghĩa.
Bàn vừa được dọn và lau sạch thì Tri mang ra bình nước trà vừa mới châm. Hà rót ra ly và mời cô Tư trước. Tôi nhìn Hà với dáng đứng và bình trà nơi tay. Em nhận ra cái nhìn của tôi và mỉm cười. Tôi còn nhớ lúc đó, trông cô Tư vui hơn mọi khi, có lẽ là nhờ có Hà.
Trước khi rời bàn ăn, cô Tư dặn :
- Mai là chúa nhựt, con chở Hà đi chơi cho biết cảnh đẹp Hà Tiên. Đi Thạch Động, biên giới, Mũi Nai hay nơi nào con biết. Hà nó ở lại đây chơi với cô 3 ngày rồi về lại Rạch Giá.
Nói xong cô Tư đứng dậy, rồi Hà cũng theo cô Tư về phòng riêng ở chùa trên. Tôi cũng rời bàn ăn và dõi mắt tìm Tri, bởi nếu không khéo … thì hai thầy trò cũng bị quở trách.
Trở về phòng, tôi lấy tờ báo đọc lướt qua mấy dòng tin tức, nhưng cứ lại nhớ đến bữa cơm chiều. Ngẫm nghĩ lại, giờ nầy tôi mới hiểu câu thơ của thi sĩ Đinh Hùng « Một sợi tóc cũng làm nên mê hoặc» !
B/ Ngày chúa nhựt – Đường lên Thạch Động :
Thế là sáng hôm sau tôi và Hà lên đường trên chiếc Mini-Lambretta, trực chỉ Thạch Động. Hà ngồi để chân một bên và vòng tay qua tôi.
Ra khỏi những con đường trong thị trấn là lúc nắng sớm đã lên và nhiều gió lạnh. Chiếc xe lướt êm trên con đường vắng. Hà có lúc tựa người vào tôi và tôi cảm nhận ra một sự gần gũi rất dễ nhớ đời. Thỉnh thoảng có chiếc xe Lam chở đầy ấp hàng và vài chiếc xe thồ từ biên giới đổ về. Hai bên đường, theo ký ức của tôi, là rừng lá lẫn cây mắm ở phía đông và cây cỏ hoang dại phủ đầy cánh đồng phía tây. Thỉnh thoảng chỉ thấy vài căn chòi lá bên đường. Lòng phơi phới trước làn gió sớm, tôi lái chiếc xe có Hà ngồi phía sau và hoàn cảnh nầy làm nảy sinh câu chuyện bởi tôi với Hà mới biết nhau từ chiều hôm qua. Vậy mà ký ức tôi không ghi lại được điều gì về câu chuyện mở đầu của hai người mới quen biết nhau. Phía trước, Thạch Động càng gần hơn sừng sững trong một không gian mênh mông tràn ngập nắng mai và gió lộng. Lần nầy tôi thấy Thạch Động cùng với con đường đẹp hơn mọi khi.
Tới nơi tôi dừng xe bên đường để nghỉ chân, để cho Hà ngắm nhìn trước khi leo dốc lên động. Chỗ nầy thiếu vắng du khách, nên chòi lá cũng đơn sơ, chỉ là mái che bán trái cây, thức uống và cũng còn có đồ lưu niệm bày trên quầy kệ. Tôi nhìn Hà trong chiếc áo dài màu có điểm hoa. Tôi không nhìn trộm như buổi chiều hôm qua. Bắt gặp cái nhìn của tôi, Hà mỉm cười và né tránh. Sau chừng 10 phút nghỉ chân, tôi ra hiệu cho Hà lên xe, Hà bảo tôi :
- Để em đi bộ.
Có lẽ Hà sợ xe chạy lên dốc không nổi nên nói thế !
- Không được, để anh chở Hà.
Và tôi « lệnh » cho Hà ngồi để chân hai bên cho vững. Thế rồi ngoan ngoãn theo lời, Hà vòng tay qua tôi, sẵn sàng lên dốc. Tôi nổ máy và chiếc xe dễ dàng leo dốc theo tay lái vững vàng của tôi. Đoạn dốc nầy không dài nhưng gồ ghề quá. Tôi không biết Hà có sợ không, bởi khi xe tắt máy hay ngả lật là cả một vấn đề. Khi xe dừng lại trên sân, Hà bước xuống và không quên tặng tôi nụ cười với cái nhìn rất dễ thương. Đáp lại, tôi cũng mỉm cười nhìn thẳng vào mắt Hà như để cho em biết rằng tôi cũng đang chú ý nhiều đến em. Trong khi tôi đang tìm chỗ để xe, Hà vẫn đứng yên tại chỗ xuống xe và chờ tôi.
Tôi đã có lần viếng Thạch Động cùng với bạn bè đồng nghiệp, nên tôi biết hết lối đi và ngõ ngách trong hang. Tôi dẫn Hà vượt qua, vượt qua rồi dừng lại ở giữa động, chỉ cho Hà xem chuyện tranh cổ tích Thạch Sanh trên trần trong ánh sáng lờ mờ. Rồi hai đứa dắt nhau bước lên theo lối bậc cấp ra ngoài hang về phía tây. Từ đây hai đứa lần mò ra chỗ ngồi cheo leo trên vách đá. Quả thật, không phải là chuyện dễ ! Nhìn xuống bên dưới là vực sâu, hướng tầm mắt ra xa, là không gian bao la, vậy mà hai đứa cũng lần mò đến.
Giờ nầy là khoảng 8 giờ sáng, gió đã bớt lạnh. Trước tầm mắt về phía biên giới, tôi chỉ cho Hà nhìn cánh đồng lúa vàng tràn ngập ánh nắng, có con đường quanh co dẫn tới cửa khẩu, rồi tôi chỉ Hà nhìn xuống vực sâu bên dưới chân tôi rồi hỏi :
- Em có sợ không ?
Hà mỉm cười lắc đầu :
- Nếu Hà sợ thì đâu có theo anh đến đây !
Sự sâu sắc và mạnh mẽ ẩn chứa trong câu nói nầy thấm sâu trong tâm tôi mãi cho đến sau nầy. Nay hồi tưởng lại câu chuyện ban đầu đó, tôi nhớ là mình có kể cho Hà nghe một chuyện tình thật đẹp và lãng mạn trong một phim với Natalie Wood (1), nữ diễn viên xinh đẹp nổi tiếng của làng điện ảnh Mỹ thập niên 60. Sau chuyện kể, hai đứa vẫn yên lặng, rồi bất chợt tôi bạo dạn nắm lấy bàn tay Hà. Em rụt rè gở tay tôi ra, tôi mỉm cười nhìn Hà mà không biết nói được lời nào. Quả thật mình vụng về quá, nay nhớ lại thấy cũng thấy nực cười và tội nghiệp ! Phải chi lúc đó bàn tay Hà để lên tay tôi…Thế là sự yên lặng lại bao trùm, tôi nhìn lơ đãng khoảng không trước mặt như để qua đi điều gì đó trong tôi, trong khi đó Hà vẫn yên lặng, chỉ có tiếng gió rì rào qua tàng cây bên dưới chân và tiếng tim đập, rồi hai đứa lại nhìn nhau mỉm cười.
Qua giây phút bối rối, tôi tự hỏi Hà đã nghĩ gì ? Có thông cảm với tôi không ? Bất chợt tôi hít thật sâu để lấy lại tinh thần rồi bảo với Hà xuống núi đi tiếp. Hà có vẻ chần chờ một chút rồi đứng dậy theo tôi. Qua chỗ gập ghềnh, tôi đưa tay ra cho Hà nắm lấy và cùng lần bước đến cửa động. Bước tiếp là cấp bậc sâu nên tôi đưa hai tay đở Hà bước xuống.… !
Ra khỏi hang động và nhận xe, hai đứa đèo nhau xuống dốc. Bởi đường gồ ghề nên Hà cảnh giác không để tôi nhắc nhở, tôi lái xe hướng về phía biên giới rồi rẽ trái theo đường ra Mũi Nai.
C/ Đường ra Mũi Nai, Hà Tiên (9 g 30 – 12 g) :
Sau khi hướng về phía biên giới một đổi, tôi lái xe rẽ trái theo đường dẫn ra Mũi Nai. Đoạn đường nầy do gió mưa và thời gian bào mòn, nên nó rất phẳng và xe chạy rất êm. Đường vắng đến nỗi không thấy có một chiếc xe đạp hay người đi bộ, cả trên đồng cũng không thấy bóng người. Hình như hai đứa đang lạc vào cõi thiên đường bởi lòng chẳng còn vướng bận, chỉ có tâm bình an với hạnh phúc của tuổi lứa đôi ngạt ngào hương hoa…
Vừa qua cánh đồng cỏ là đến chân núi. Hai đứa theo con đường uốn lượn đẹp như tranh, hàng cây thốt nốt xen lẫn những cây dại bên đường đã giữ chân hai đứa. Tôi dừng xe lại, Hà bước xuống, chúng tôi nhìn nhau như để hội ý.
- Ngồi lại đây phải không anh¸ Hà hỏi tôi.
- Tới rồi, bồng lai là đây em ạ. Tôi nói đùa thôi nhưng cũng làm Hà cười khúc khích.
Chọn được chỗ ngồi, nhìn tôi, Hà chỉ tay :
- Mình ngồi đây đi anh, được không ?
- Đúng là chỗ nầy rồi, thôi mình ngồi xuống đây đi.
Hai đứa như đôi chim ríu rít bên nhau. Rồi Hà lấy ra mấy thỏi sô-cô-la và phong kẹo :
- Mình ăn sô-cô-la, đói bụng rồi, nè ! Hà đưa cho tôi và nói :
- Nó bị nắng nóng làm chảy rồi.
Nụ cười và ánh mắt của Hà lúc nào cũng thấy dễ thương. Trong giây phút thăng hoa, tôi nói với Hà :
- Để anh đọc bài thơ nầy cho Hà nghe nhé, thực ra là bài nhạc có tên là « Mộng Dưới Hoa » do Phạm Đình Chương phổ thơ của thi sĩ Đinh Hùng (2):
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
………..
Hò hẹn nhau rồi em nói đi
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
………..
Ôi hoa kề vai, hương ngát mái đầu…
…………
Đọc xong bài thơ như theo lời ca, tôi hỏi:
- Em nghe bài thơ phổ nhạc nầy có hay không?
- Anh lãng mạng quá…!
- Mà anh hỏi bài thơ phổ nhạc nầy có hay không?
- Em muốn được nghe lại.
- Mấy câu thôi nhé!
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Rồi tôi nhìn Hà:
Hò hẹn nhau rồi em nói đi
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
………..
Ôi hoa kề vai, hương ngát mái đầu…
Tôi hát khẽ và cố ý lập lại “ Hò hẹn nhau rồi em nói đi”…. Trong giây phút hưng phấn chưa kịp nghĩ suy thì tôi nghe tiếng của Hà:
- Sao anh yên lặng? Anh có nói gì với em không?
Thế là, nhưng mà nói gì đây! Nhưng đây là cơ hội mà mấy ai có được để cùng nhau tâm sự. Qua giây phút lúng túng, tôi chợt có câu hỏi:
- Em có thấy cảnh nầy đẹp không?
- Đẹp quá phải không anh!
- Mà cũng nhờ có em ở đây, nên cảnh mới đẹp đến như vậy!
- Cám ơn anh đã có lời làm em hạnh phúc. Sau đó Hà tâm sự với tôi:
- Hà nói hết cho anh Thái nghe những gì riêng tư của Hà để sau nầy anh không hối hận về quyết định của mình. Đoạn Hà nói tiếp:
- Em thì khỏe mạnh không có bệnh chi, chỉ có viêm mũi dị ứng khi trở trời và không có liên hệ gì với ai cho tới bây giờ…
Lời chân tình đến thế là cùng! Tự nhiên tôi nghe tim mình đập và trộm nghĩ: Rõ ràng Hà là một thiếu nữ chân thật, mạnh mẽ và dứt khoát.
Tôi không có trả lời liền lời tâm sự của Hà mà để tâm hồn phiêu lãng đâu đâu trong giây phút đặc biệt nầy. Lời nói của Hà đã đưa tôi vào sự bình an lạ thường là tôi có Hà bên cạnh. Vì muốn cho Hà được hạnh phúc như mình, tôi đưa Hà vào cõi của âm nhạc, của thi ca như là để tô thắm chuyện lòng của hai đứa, mà chưa vội có câu trả lời cho Hà.
– Tôi nói đến thi ca, đến bài thơ của Đinh Hùng, rồi giọng ngâm của Hồ Điệp.
– Tôi cũng nói đến âm nhạc, có lẽ là bài nhạc nổi tiếng của Văn Cao như là bài Suối Mơ. Tôi cũng nói đến Đoàn Chuẩn với bài Thu Quyến Rũ, nhưng rồi tôi chợt nhận ra sự thất vọng trên gương mặt của Hà, hình như em chờ đợi điều gì đó chớ không phải âm nhạc hay thi ca.
Tôi trở về với thực tại khi Hà phát hiện ra đàn kiến, những con kiến đen to bu trên thức ăn, dưới chỗ ngồi, trên quần áo của hai đứa. Đây là cơ hội hiếm hoi để tôi quan tâm chăm sóc Hà “phủi kiến”, trong khi Hà thu dọn vài thứ, rồi hai đứa đứng dậy lên xe. Tôi hỏi Hà:
- Có lưu luyến gì chỗ nầy không?
Hà mỉm cười, tôi hỏi tiếp:
- Có bao giờ mình ngồi lại chỗ nầy lần nữa không?
- Hà cũng không biết nữa.
Tôi nổ máy, lái xe hướng về Mũi Nai, đoạn đường nầy quá gồ ghề làm xe luôn bị dằn xóc liên tục, hai bên là vách núi, cây cối rậm rạp nên là đoạn đường nguy hiểm cho người qua lại. Vượt qua dốc đá là tới chùa Miên và phải mất chừng mười phút nữa là tới Mũi Nai. Hai đứa yên lặng để Hà ngắm cảnh cho tới khi tôi dừng xe trên bãi biển Mũi Nai.
D/ Bãi biển Mũi Nai, Hà Tiên:
Bãi biển Mũi Nai giờ nầy cũng vắng bóng người, không thấy có ghe thuyền neo đậu. Hai đứa sóng đôi trên bãi cát nghe sóng vỗ gió gào. Tuy nhiên cả hai đều thấm mệt và đói khát. Theo dự định hai đứa còn phải đến Bãi Nò, điểm cuối của chương trình. Hà có vẻ buồn hiu còn tôi thì gần như cạn kiệt hết năng lượng nên không đi bộ được nữa và hai đứa ra xe, chạy tiếp ra Bãi Nò.
Tôi lái dọc bãi cát đến chân núi (đồi) và tìm cách lên “lầu hoang” được xây từ thời Pháp thuộc. Vì không có lối mòn, nên phải vạt cỏ cây mà bước. Đi được nửa đường hai đứa đều quá mệt không đi tiếp được.
- Thôi trở lại thôi.
Tôi nói với Hà. Em yên lặng và theo chân tôi. Trở lại xe, hai đứa đi qua thông Lộc Trĩ, theo đường về lại thị trấn Hà Tiên và tới chùa Phật Đường thì đã xế chiều (gần 14 giờ).
E/ Ngày thứ hai trong tuần:
Hà từ chối không đi nữa với lý do là còn mệt. Trông Hà có vẻ kém vui, vậy mà tôi không biết thăm hỏi hay chăm sóc dù chỉ là lời nói. Tôi lại đến trường trong tinh thần lơ đãng, còn Hà thì không vui.
Chiều về, cô Tư hỏi:
- Sao hai đứa không đi chơi mà ở nhà?
Tôi thưa với cô Tư là Hà bị mệt.
F/ Ngày thứ ba trong tuần:
Theo lời dặn của cô Tư, tôi đưa Hà đến chùa Phù Dung thật sớm để gặp Sư Bà có việc. Cũng như hôm trước, Hà mặc áo dài tươm tất có màu hoa. Hình như buổi sáng sớm là lúc người phụ nữ đẹp nhất trong ngày. Hôm nay Hà đẹp quá. Sau lời chào Hà lặng lẽ ngồi sau tôi. Chúng tôi đi trong màn sương sớm và có gió lạnh. Tôi cũng ăn mặc đàng hoàng như khi lên lớp, bên cạnh Hà mà tôi vụng về quá, không biết gợi chuyện hay hỏi thăm sức khỏe của Hà. Khi đến chùa thì cổng cũng đã mở. Theo bước chân của Hà tôi dắt xe vào sân. Để phá tan sự yên lặng từ nãy đến giờ, tôi hỏi Hà:
- Em có gặp Sư Bà lần nào chưa?
Hà lắc đầu nói:
- Em sẽ vào trong rồi hỏi, anh chờ ở đây để em vào một mình cho tiện.
Thế là tôi đứng chờ bên ngoài, nhìn theo dáng em đi. Đang suy nghĩ vẩn vơ tôi chợt nhớ đến Dì Tự; người nữ tu trẻ trong sách cùng tên là Dì Tự (?) kể về nàng Ái Cơ trong chậu úp, chùa Phù Dung và ao sen với hoa Phù Cừ, một chuyện tình đẩm lệ, nghiệt ngã đã xảy ra ở nơi đây. Khi Hà trở ra tôi liền hỏi:
- Việc đã xong rồi phải không?
- Dạ xong rồi.
- Vậy hôm nay đi đâu, anh đưa Hà đi.
- Thôi về lại chùa đi anh!
Tôi thấy nuối tiếc mà chưa biết phải nói với Hà điều chi thì Hà bước ra cổng nên tôi dẫn xe theo sau. Cảnh vật dần trở nên sáng tỏ dưới ánh sáng ban mai, tôi tiếp tục dẫn xe và Hà đi bên cạnh, tôi chỉ Hà hai cái hồ nhỏ bên cạnh:
- Đây là hai hồ sen trồng hoa Phù Cừ, một chứng tích còn lại của Phù Dung Tự. Hà có biết sự tích của chùa Phù Dung chưa?
- Dạ chưa.
- Vậy là anh sẽ kể cho nghe hoặc là mượn quyển sách cho em đọc.
Hôm nay nắng đẹp như thế nầy mà không đèo nhau đi chơi thì thật là uổng quá, nhưng nói sao với Hà. Tôi phân vân trong khi Hà lơ đãng nhìn. Sau một lúc yên lặng, tôi bảo Hà lên xe và hai đứa trở về chùa Phật Đường. Tôi lấy tập sách và đi vội đến trường cho kịp giờ buổi sáng.
Bên mâm cơm chiều, không có Hà (có lẽ là Hà đi chợ mua sắm chưa kịp về). hai cô cháu dùng bữa và trò chuyện với nhau. Cô cố ý tìm hiểu nên hỏi:
- Sao rồi, con có nói gì với Hà chưa?
- Con chưa biết nói gì với Hà.
Rồi cô Tư nói tiếp:
- Nó giận con rồi đó, cô thấy nó buồn buồn, chắc là có chuyện gì rồi. Hèn chi chiều tối hôm qua (tối thứ hai) cô không thấy hai đứa nói chuyện.
- Con không có cơ hội.
- Con khù khờ quá, nó chê con rồi đó! Cô không biết ngày mai nó về Rạch Giá lúc nào, chắc là nó về sớm rồi đó. Thôi mai mốt con qua bển (RG), lại nhà gặp lại nó, coi nó nói làm sao với con rồi cho cô biết.
ANH HOA, Rằm tháng 9 âm lịch Tân Sửu (tháng 10 năm 2021)
Tái bút : Thầy Huỳnh Văn Hòa, bút hiệu ANH HOA, giáo viên Trung Tiểu Học Hà Tiên 1964 – 1967.
Còn tiếp, xin mời thầy cô và các bạn chờ đọc tiếp bài « Ký ức về chùa Phật Đường Hà Tiên – Phần 3 »
Con đường dẫn ra Thạch Động (Hà Tiên) trong những năm 60-70. Nguồn: Lưu Như Việt (1971-1972)
Hình trái: Thầy Huỳnh Văn Hòa chụp trước sân chùa Tam Bảo, Hà Tiên, trước khi về tá túc ở chùa Phật Đường, năm 1966. Nguồn: Thầy Huỳnh Văn Hòa. Hình phải: Con đường từ phố Hà Tiên ra Thạch Động với chiếc xe Mini-Lambretta của thầy Huỳnh Văn Hòa kể trong ký ức trên. Hình: Thầy Nguyễn Hồng Ẩn, 1966 (3).
Hình bãi biển Mũi Nai, Hà Tiên trong những năm 60-70. Nguồn hình: KimLy
Đường vào bãi biển « Bãi Nò », Hà Tiên.
Chú thích:
(1) Nữ diễn viên Natalie Wood đóng trong phim « La Fièvre dans le sang » (« Splendor in the Grass ») do Elia Kazan thực hiện và ra mắt năm 1961. Thầy Huỳnh Văn Hòa có dịp xem phim nầy vào năm 1965 tại rạp Minh Châu, Cần Thơ.
(2) Đó là bài thơ mang tựa : « Tình Tự dưới hoa “ của Đinh Hùng.
(3) Xin cám ơn thầy Nguyễn Hồng Ẩn đã vui lòng cho phép mình trích phần hình của thầy, trong đó có chiếc xe MiniLambretta để minh họa cho bài viết.