« Ăn Tết » thời thơ ấu – (Phần 2: trước và sau Tết vài ngày)

Thầy cô và các bạn thân mến, tiếp tục viết về việc chuẩn bị « ăn Tết » vì sau mấy vụ quét nóc nhà và chùi lư xong rồi thì cũng gần tới ngày 23 tháng chạp, ngày 23 tháng chạp là ngày mọi nhà đều cúng đưa Ông Táo về Trời…Nói đến việc đưa Ông Táo thì mình nhớ lại ngày xưa, khi đọc báo Xuân, mình rất thích đọc mục « Lá sớ của Ông Táo »….Lúc còn trẻ con, ai cũng được ông bà cha mẹ kể cho nghe chuyện Ông Táo về Trời. Trong nhà nào cũng có bàn thờ Ông Táo, thường là đặt ở nhà sau, gần gần căn bếp…Ông bà thường kể là Ông Táo cùng ở trong nhà với chúng ta suốt năm, mỗi ngày ông đều quan sát xem xét mọi việc trong nhà, ai làm điều gì phải, quấy ông đều ghi chép cả, vì nhiều việc phải ghi chép trong suốt một năm nên tờ giấy của ông ghi trở nên quá dài, dài đến nổi thành một tờ gọi là « Sớ »…Ông ghi như vậy để đến ngày 23 tháng chạp ông sẽ bay lên Trời trình lại mọi việc cho Ngọc Hoàng Thượng Đế để ông Trời chiếu theo sự việc mà sẽ thưởng phạt các người trong nhà…Hồi nhỏ nghe kể như vậy mình cũng sợ lắm và luôn cố gắng làm việc đàng hoàng trong nhà, không dám nói hỗn với bà ngoại và vú, không dám nói gạt hay dối trá…Để có chút đỉnh quà cáp gọi là « đi cửa sau » với Ông Táo để ông trình tấu nhẹ nhẹ cho các tội của người trong nhà, người ta thường nấu chè cúng trong ngày 23 tháng Chạp để tiển đưa Ông Táo lên Trời, thế mới có tục nấu chè và chè có tên là chè ỷ và xôi nước…(cái nầy là mình đoán ra như vậy chứ không phải là chuyện tục lệ nấu chè cúng Ông Táo nhé)…Nhà mình năm nào cũng có nấu chè vì bà ngoại mình rất khéo trong việc làm bánh. Bà ngoại biết làm nhiều thứ bánh, mỗi lần trong nhà có làm bánh là do bà ngoại đứng ra điều khiển mọi giai đoạn…Mình còn nhớ bà ngoại nấu chè ỷ, chè xôi nước, làm bánh bông lan, làm bánh gai,…nhiều thứ bánh lắm.

Lúc gần tới ngày đưa Ông Táo về Trời, người ta thường nói là đã đến tiết Đông Chí. Theo lịch Trung Quốc cổ xưa, một năm như vậy có 24 tiết khí trời, trước tiết Đông Chí là tiết Đại Tuyết và sau tiết Đông Chí là tiết Tiểu Hàn. Tiết Đông Chí bắt đầu khoảng 21, 22 tháng chạp và chấm dứt khoảng mùng 5, 6 tháng giêng năm sau. Gần tới ngày nầy, mấy đưa nhỏ như tụi mình thường nhốn nháo nói với nhau là gần tới ngày vò ỷ rồi,…Hồi nhỏ mấy anh em mình rất thích và nôn nao đợi đến ngày vò ỷ…Trước đó một hai ngày, bà ngoại và vú lo chế tạo ra bột gạo nếp. Nhà mình có một báu vật được truyền đi rất lâu đời, có lẽ là của bà Cố để lại, đó là cái cối xây bột bằng đá, rất lớn và rất nặng…Bộ cối xây bột nầy gồm hai phần, một phần ở dưới, hình tròn, có rảnh chung quanh và có một chỗ cho nước bột thoát ra chảy vào một cái thau lớn để hứng vào, phần trên thì cũng hình tròn rất nặng, ở giữa có khoét một lỗ đi sâu xuống dưới đáy để mình cho gạo nếp từ từ vào gọi là cho cối « ăn »…Phía bên bìa phần trên nầy có một lỗ sâu để cắm một thanh gỗ tròn chắc chắn để người ta cầm vào thanh gỗ đó mà xây cối..Lúc xây bột thường là buổi tối vì trước đó phải ngâm gạo nếp một thời gian. Buổi tối đó bà ngoại thường ngồi cho cối « ăn » còn vú và mấy anh em mình thì thay phiên nhau xây cối vì việc cầm thanh gỗ nầy xây cối rất là mỏi tay…Bà ngoại cho cối « ăn » rất khéo tay, mình cứ tiếp tục xây cối không gián đoạn và bà ngoại chờ lúc cánh tay mình vừa đi qua thì cho một muổng gạo nếp vào cối mà không đụng tay mình cũng không làm lở nhịp xây cối…Sau khi công việc xây bột gạo nếp xong thì bà ngoại thực hiện một vài giai đoạn tiếp theo như vắt nước vào trong một bao vải trắng sạch và chắc chắn, rồi để bao vải chứa nước bột đã xây xong đó trên cái cối xây và lấy cái phần trên của cối xây dằn lên bao bột nước đó, cứ để như thế qua một đêm thì sáng ra mở bao vải ra sẽ có những miếng bột thành hình trong bao vải. Lúc nầy là lúc chuẩn bị để tối đó sẽ vò ỷ.

Đây chính là cái cối xây bột ở nhà mình đã được ông bà để lại từ rất xa xưa (trên cối có ghi năm 1940). Thời xưa cối nầy có trong nhà mình ở Hà Tiên, dùng xây bột làm bánh thường xuyên. Hiện nay cối trữ tại nhà em mình Trần Văn Phi ở Kiên Lương.

Trong lúc đó thì bà ngoại và vú nấu đậu xanh để làm nhân. Hồi đó nhà mình có một cái chảo bằng đồng rất lớn và sáng chói. Cái chảo nầy là để dành nấu nhân  đậu xanh, nếu có lúc làm bánh nào khác mà có nhân dừa thì cũng nấu trên chảo nầy. Thấy một chảo dừa ngào với đường có màu nâu bóng là rất hấp dẫn, mình rất thích ăn trước vài miếng nhân nầy. Trở lại việc nấu nhân đậu xanh để làm xôi nước, bà ngoại chuẩn bị xong một chảo nhân rất là ngon, màu vàng cháy…Mình thường đi ra đi vô trong bếp, lần nào cũng lấy ngón tay quẹt một miếng nhân đưa lên miệng ăn rất ngon…Lúc đó vì còn là trẻ con nên không nghĩ xa tới nơi tới chốn…Vì nhân đó là để làm chè xôi nước để cúng ngày 23 tháng chạp mà mình dám ăn trước dù là vài miếng nhỏ như vậy cũng là phạm lỗi với người trên rồi…

Buổi tối cả nhà quây quần bắt đầu vào công việc thích nhất là vò ỷ. Cả nhà tụ họp ở nhà sau, trên cái phản gỗ lớn thường ngày dùng làm chỗ ăn cơm cho tụi mình. Bột đã chuẩn bị xong và chia ra làm hai phần, bột màu trắng và bột màu đỏ, vì là để nấu chè ỷ nên bà ngoại dùng phẩm đỏ để chế ra bột có màu đỏ, chè ỷ thì thường có hai loại màu trắng và màu đỏ. Mấy anh em mình rất thích vò ỷ, nhưng cũng không bỏ cái tật vui chơi…Mình còn nhớ mình thường hay cắc cớ là cố tình vò một số ít hạt ỷ hơi khác lạ một chút, dùng bột nhiều hơn để hạt ỷ hơi lớn hơn bình thường, rồi chờ khi nấu chè xong cả, cúng kiến xong rồi thì đi múc trong nồi chè để tìm lại mấy viên ỷ do mình chế tạo ra…để nhìn cho vui…và cũng để ăn luôn!!!.

Trong ngày cúng chè ỷ và chè xôi nước thì không biết sao có một cái tục lệ nầy ở đâu mà có, số là vú kêu mình đem mấy hạt ỷ, gắn vào mấy chỗ có « vú » của mấy cái lu nước ở nhà mình…Chỗ nầy mình phải cắt nghĩa rỏ hơn, nhà mình có rất nhiều lu nước, có tới hơn một chục cái lu, xếp hàng dài theo mé nhà sau. Những cái lu nầy là loại lu rộng và có cái bụng phình to, người ta thường kêu là « lu mái vú », khác với loại lu kêu là « lu da lươn » nhỏ và cao hơn. Nhà mình có những cái lu nầy là để tích trữ nước mưa. Nhớ mỗi lần có mưa lớn là nhà rất chộn rộn vì bà ngoại và vú cùng với mấy đứa mình phải chuyển nước từ một cái lu đầu máng xối được hứng nước mưa liên tục nên sợ khi quá đầy thì nước tràn ra nên phải dùng thùng nhỏ chuyển qua các lu lân cận đó..Nhờ vậy mà nhà luôn có nước mưa mát rượi để uống suốt năm. Mỗi cái lu như vậy nếu mình để ý một chút sẽ thấy có hai cục lồi ra khoảng gần phía miệng lu, trong mỗi cục như vậy có hai lỗ hổng vô một chút…Khi tới ngày cúng chè ỷ thì phải gắn vào mỗi lỗ hổng như vậy một viên ỷ và phải gắn hết tất cả các lu có trong nhà…

Một trong những cái « lu mái vú » còn lại của nhà mình ở Hà Tiên. Nếu để ý ta sẽ thấy hai cục nhỏ gắn bên hông lu, mỗi cục nhỏ lại có hai lỗ hỏng mà ta phải gắn vào hai viên ỷ khi tới ngày cúng chè ỷ 23 tháng chạp…

Còn một việc thường thấy người ta làm vài ngày trước Tết nữa là đi kiếm và đốn các nhánh cây mai ở trên núi đem về nhà…Vụ nầy thì ở nhà mình hoàn toàn không có làm…Chỉ cam phận đi chợ mua các nhánh mai đem về ngâm nước nóng và hy vọng cho mai nở đúng vào mấy ngày Tết vậy thôi…Vì sao không lặn lội trên núi để đốn mai về? Số là ở nhà mình, bà ngoại và vú mình áp dụng một chánh sách rất là chặc chẻ và nghiêm khắc là tuyệt đối không cho phép con cháu đi « băng rừng lội suối », tức là cấm tuyệt đối không cho tụi mình đi lên núi chơi và hoàn toàn không cho bén mảng tới sông suối để lặn lội tìm hào hến gì đó…Đó là quy luật ở nhà mình như vậy, vì thế khi mấy đứa bạn rủ ren lên núi Lăng tìm mai về ăn Tết thì mình rất muốn đi theo nhưng không dám cải vụ nầy.. Nhớ khi ở Hà Tiên có phong trào nuôi và đá cá « lia thia », thấy mấy đứa bạn đi tìm kiếm, vớt cá « lia thia » ở khu Ao Sen mình thích và muốn đi theo lắm nhưng không dám đi vì ở nhà không cho đi gần sông suối….Hà Tiên là nơi có rất nhiều ao hồ, như ao Sà Lách, ao Lục Bình, ao Rau Muống..v..v..Tất cả các ao nầy đối với mấy anh em mình là nơi bị cấm đoán không cho tới gần, mà mình cũng rất sợ khi nghe kể là dưới mấy cái ao đó thường có « ma da » nó kéo chân mình cho chìm xuống ao chết… Về việc chưng hoa mai ăn Tết thì năm nào nhà mình cũng có mua vài nhánh mai ở chợ đem về nhà chưng trong bình lớn và để trang trí trên một cái bàn ở giữa nhà…

Nói đến cái bàn ở ngay giữa nhà và có chưng bình mai lớn làm mình nhớ lại rất rỏ điều nầy. Ở Hà Tiên và ở mọi vùng quê chung quanh Hà Tiên, trước khi Tết vài ngày là người ta phải dọn một chiếc bàn vuông hay tròn, để ở giữa nhà, ngay khi ta bước vào nhà thì thấy liền. Trên bàn để một bình bông cắm các nhánh hoa mai đã được lựa chọn kỷ và ngâm nước sôi cho mai nở kịp vào những ngày Tết. Chung quanh bình mai lớn nầy, người ta để rất nhiều chai bia 33 hiệu con cọp, rồi tiếp theo là rất nhiều chai nước ngọt như là: xá xị, mỏ nách (limonade), bạc hà…v…v…, cũng có thêm các hộp bánh tây, hộp trà trang trí chung quanh. Trên bình bông cắm các nhánh mai, lẫn lộn với màu vàng của các nụ hoa mai, người ta treo lủng lẳng các thiệp chúc Tết mà con cái trong nhà được bạn bè gởi tặng, màu đỏ của các thiệp chúc Tết hòa với màu vàng của các nụ hoa mai làm cho khung cảnh trở nên rất ấm cúng và rất xinh mắt. năm nào và nhà nào cũng có trang trí cái bàn với bình hoa mai, chai bia, nước ngọt và trà bánh như vậy. Mấy đứa ở nhà mình cũng dọn một cái bàn theo đúng thể thức đó, có điều là ở nhà mình thì hơi khác một chút, đó là cái bàn « ăn tết » của nhà mình thì quay ra phía nhà sau chứ không phải mới bước vào nhà cửa trước thì thấy như mọi nhà khác. Vì sao, là vì bà ngoại của mình vẫn còn giữ theo cái không gian của những năm rất xa xưa khi mà ngôi chợ Hà Tiên còn nằm bên phía chùa Bà Mã Châu ở bên đường Tô Châu, vì thế mặt chánh của nhà mình thời xưa nhìn về phía chợ, tức là hồi xưa đó thì cửa chánh nhà mình nhìn về phía đường Tô Châu, còn cửa sau nhìn ra đường Bạch Đằng. Rốt cuộc sau nầy khi chợ Hà Tiên cất lại ở giữa hai bên đường Tham Tướng Sanh và Tuần Phủ Đạt thì cửa chánh nhà mình lại trở thành cửa sau nhìn về phía có Đình Thần Thành Hoàng Mỹ Đức và chùa Bà Mã Châu bên đường Tô Châu, còn cửa sau hồi xưa phía đường Bạch Đằng thì trở thành cửa chánh vì nó nhìn về hướng chợ Hà Tiên mới cất. Đối với bà ngoại cửa chánh của nhà vẫn là cửa sau bây giờ nên bàn thờ trước nhà (bàn Trời), và tất cả bàn thờ trong nhà vẫn còn giữ nguyên quay mặt ra cửa sau của thời sau nầy khi người ta đã dời chợ về đường Tham Tướng Sanh và đường Tuần Phủ Đạt.

Đến đây nhân nhắc việc thiệp chúc Tết khi ngày Xuân đến thì mình cũng còn nhớ là mỗi lần sắp đến Tết thì học trò như tụi mình thường ra các tiệm như Minh Thái Phong ở phố tứ diện, tiệm Anh « Buôn » ở khu có sáu căn tiệm ở mặt nam của nhà lồng chợ Hà Tiên (tiệm của Anh « Buôn » ở đối diện với tiệm bán trầu cau của Bà Năm Quới), tụi mình ra đó để mua thiệp chúc Tết về và ghi vài hàng gởi chúc quý thầy cô và bạn bè…Thời xa xưa đó không có mạng xã hội hay E-mail gì cả, thấy vậy mà hay hơn vì người ta gởi cho nhau những tấm thiệp màu, có hình vẽ cây mai nhắc nhở ngày Xuân ngày Tết rất xinh đẹp. Mình còn nhớ khi còn học lớp Tiếp Liên tức lớp cuối ở bậc Tiểu Học trường Tiểu Học Hà Tiên, lớp do thầy Hà Phương Linh dạy, thầy dạy luyện thi cho các học sinh đã một lần thi hỏng kỳ thi lên lớp Đệ Thất…Thời đó thầy Hà Phương Linh dạy luyện thi rất nổi tiếng với các bài toán động tử, vòi nước..v..v..Lúc đó vào cuối năm, học trò có mua thiệp để vào bao thơ và lên bàn thầy đưa thiệp chúc Tết cho thầy. Trong lớp mình có người bạn tên là Trương, bạn Trương nầy là con của nhà có tiệm may hiệu là Vĩnh Trường, tiệm nầy ở ngay trên đường Tham Tướng Sanh, giữa hai con đường Lam Sơn và Chi Lăng, gần tiệm đồi mồi Lâm Văn Cao vài căn nhà. các bạn trong lớp đều kêu bạn là « Trương Vĩnh Trường », khi bạn Trương lên bàn thầy và trao thiệp chúc Tết cho thầy thì mình thấy thầy mở thiệp ra đọc và thầy nói một câu mà mình vẫn còn nhớ, thầy nói khi nào sau nầy mấy em có đi đến những phương Trời xa xôi như Paris hay New York, các em vẫn hãy nhớ đến thầy cô ngày xưa….Có lẽ câu nói của thầy làm cho bạn Trương rất cảm động nên vì mình ngồi bàn đầu nên thấy rỏ bạn Trương nhỏ hai giọt nước mắt xuống và bạn khoanh tay xin phép thầy chạy nhanh về chỗ ngồi vì không nén được cảm xúc lúc đó…Đó là hình ảnh mà đến ngày nay mình vẫn còn ghi khắc sâu trong đầu óc…

Cái bàn ở mỗi nhà với bình hoa mai và những chai bia, nước ngọt, và trà bánh trang trí rất đẹp như đã nói, cái bàn đó chính là linh hồn của những ngày Tết ở Hà Tiên, hình ảnh cái bàn đó tượng trưng cho sự sống và nỗi niềm « ăn Tết » của người dân dù cho giàu hay nghèo, mỗi nhà đều dọn dẹp, trang trí cái bàn như vậy. Cái bàn đó là dấu hiệu sống của mùa Xuân và cái Tết. Mình còn nhớ sau khi trải qua ba bốn ngày Tết, những khi có dịp cùng với bạn bè đi chơi xa ra ở vùng Thạch Động, biên giới hay phía bên vùng quê Thuận Yên, Dương Hòa, mình vẫn thấy trong những căn nhà lá vùng quê đó, nhà nào cũng còn giữ cái bàn với bình hoa mai dù đã hơi tàn một chút, các chai bia và nước ngọt cũng đã thưa thớt hơn một chút, nhưng đó là dấu hiệu cho thấy mùa Xuân và hương vị Tết vẫn còn, mỗi lần mình thấy hình ảnh đó thì thấy lòng rất vui, ấm cúng và tự thấy là Tết vẫn còn…

Còn một việc nữa phải làm trước khi « ăn Tết », đó là trước Tết khoảng một tuần thì phải đi hớt tóc cho gọn gàng, sách sẽ và … »đẹp trai » hơn…Hồi xưa khi còn nhỏ, mình thường hớt tóc ở tiệm ông Trần Kỷ, tiệm ở trên đường Trần Hầu, ở sát bên tiệm đồi mồi Lê Minh. Thỉnh thoảng thì mình cũng có hớt tóc ở các tiệm khác như tiệm của ba anh Trần Hồng Khanh ở đường Bạch Đằng gần nhà mình, hay tiệm của ba anh Đỗ Thành Tâm và tiệm của chú Tư Thiên ở phía dãy tiệm cất sát mé sông Giang Thành giữa Cầu Bắc và chợ cá Hà Tiên.  Đến bây giờ mình cũng còn nhớ lúc vào tiệm hớt tóc của chú Tư Thiên thì chú hay nói đùa vui với mình lắm, chú hay nói thằng nầy đẹp trai quá mậy, chắc lớn « đắt gái » lắm…Mình lúc đó còn nhỏ, chỉ biết cười thẹn thùng, không dám nói gì cả, mà cũng không dám nhìn ngắm các hình ảnh chú trang trí chung quanh vách của tiệm, chú thường treo các bóng đèn và các bình bên trong có gắn các nhánh trầu bà, trường sanh rất đẹp, và đặc biệt là tiệm của chú thường có các hình ảnh các cô gái theo kiểu trong tạp chí « playboy »…Mấy người bạn mình thường bàn với nhau là đừng có chờ sát ngay gần Tết mà đi hớt tóc, phải hớt tóc trước Tết khoảng gần 10 ngày để cho tóc ra dài thêm một chút thì mới đẹp, còn cái đầu mới hớt trông cũng « quê » lắm…

Chuẩn bị đủ mọi thứ xong xuôi rồi thì cái gì đến phải đến thôi, trong năm thì cứ đếm ngày chờ cho Tết đến, bây giờ thì chỉ còn tính theo năm ngón tay trên bàn tay, còn 5 ngày nữa, còn 3 ngày nữa..v..v…Buổi chiều ngày 30 Tết thấy vậy tuy trong lòng rất nôn nao và rộn rã vì Tết đã đến sát bên mình, nhưng khi đi chơi ngoài phố chợ thì thấy rất lạ vì trong những tiệm buôn bán, hàng hóa dẹp trống trơn,  người ta buôn bán quanh năm, chỉ có ngày 30 nầy là lúc ngưng buôn bán lại để dọn dẹp tiệm quán cho gọn gàng để « ăn Tết ». Buổi tối 30 lại là lúc cúng để rước Ông Bà về nhà mình « ăn Tết », nhà mình cũng vậy, tối đó cúng kiến xong xuôi, trong nhà hương khói bay đầy thơm ngát, trong lòng trẻ con như mình cũng thấy rất là ấm cúng. Xứ sở mình ngày xưa tuy trong thời kỳ chiến tranh nhưng mọi nhà cũng được hưởng những ngày Xuân thật thanh bình, êm ả và hạnh phúc…Sau đó bà ngoại và vú kêu mấy đứa tụi mình đi ngủ sớm để sáng  thức sớm « ăn Tết »…Khỏi nói ra thì thầy cô và các bạn cũng biết là tụi con nít cứ nôn nao chộn rộn chờ cho đến Tết, trước đó một hai ngày thì đã có đầy đủ quần áo sẽ mặc trong mấy ngày Tết, nhóm anh em mình còn có « chương trình » tính đâu đó sẳn sàng cả là bộ quần áo nào mặc trong ngày mùng một, bộ nào mặc trong ngày mùng hai, mùng ba, tính sẳn cho tới ngày mùng bốn và mùng năm…Dĩ nhiên là mùng một sẽ mặc bộ mới và đẹp nhất (bộ đồ số một)…Đâu đó sắp xếp sẳn cả, vú cũng có tham dự vào ý kiến và lo cho anh em tụi mình trong vụ nầy.

Khi cả nhà đi ngủ yên lặng hết, tụi nhỏ như mình cũng vô mùng xong xuôi, thấy vậy mà cũng không ngủ được, cứ thức mở mắt suy nghĩ lung tung….Đến 12 giờ đêm, khi giờ bắt đầu qua ngày mùng một thì ông ngoại thức dậy để chuẩn bị đi chùa Ông Quan Thánh cúng và hái lộc…Ở Hà Tiên có một ngôi miếu rất lâu đời, đó là miếu Ông Quan Thánh Đế có từ thời ông Mạc Cửu, đúng tên chữ là miếu nhưng người Hà Tiên có thói quen không phân biệt miếu hay chùa nên cứ gọi là chùa Ông, chùa Ông ở gần nhà đèn cung cấp điện, phía sau chùa Phật Đường, cặp theo đường Mạc Thiên Tích và đường Mạc Cửu lên Ao Sen. Hồi nhỏ mình rất ít khi nào đi vào chùa Ông vì rất sợ ngôi chùa nầy. Có rất nhiều huyền thoại về ngôi chùa Ông, phía ngoài vách có vẽ hình con ngựa Xích Thố màu trắng, hồi nhỏ mình thường nghe người ta nói ban đêm ở gần chùa Ông, người ta thường nghe tiếng ngựa hí vang…Dân Hà Tiên có tục đi chùa Ông trong ngày mùng một ngay sau khi đêm khuya 30 đã chuyển qua giờ sáng mùng một. Có một lần mình được ông ngoại dẫn đi chùa Ông như vậy, đi vào bên trong thấy rất đông người, nhang khói bay mù mịt…Khi mình tới gần bàn thờ có tượng mấy ông Thần đó thì thấy hình tượng rất là cao lớn mình không dám nhìn thẳng vào những gương mặt của mấy ông,…lòng thì cũng hồi hộp sợ sệt…

Khi cả nhà thức dậy ngay lúc vào giờ đầu tiên của ngày mùng một để ông ngoại đi chùa Ông thì ngoại và vú cũng kêu tụi nhỏ mình đi ngủ lại vì còn rất lâu mới tới sáng…Tụi nhỏ đi ngủ lại và cũng chợp mắt được một lúc lâu. Đến 4, 5 giờ sáng thì cũng bắt đầu thức dậy, sau khi rửa mặt vệ sinh xong cả thì bắt đầu thay quần áo mới theo đúng như chương trình dự định…Đứa nào cũng có vẻ hân hoan, vui mừng vì thấy Tết đã đến thật sự và cụ thể ngay hiện tại rồi…Hồi xưa mình không hề nghĩ đến tinh thần và nỗi lòng của ông bà cha mẹ có vui mừng khi thấy Tết đến hay không, mình chỉ tự thấy mình vui và muốn hưởng Tết cho mình…không biết trong lòng ông bà cha mẹ ra sao…Sau nầy khi lớn lên mình mới thấu hiểu là có khi tùy theo hoàn cảnh gia đình giàu nghèo, người lớn có cảm nhận về Tết khác với trẻ con…Mặc dù trong nhà nhiều khi quanh năm khó khăn nhưng quý bậc ông bà cha mẹ cũng cố gắng lo cho tương đối đầy đủ về vật chất cho con cháu trong nhà để cho con cháu vui hưởng ngày Tết không thua bạn bè chung quanh…Trong khi đó thì con cháu không cảm nhận hay thông cảm được điều đó, vì tâm hồn còn quá trẻ con, non nớt, còn thiếu sót…Có những bậc cha mẹ cố gắng chịu mọi thiệt thòi để lo cho con cái của mình được « ăn Tết » cũng như bạn bè nó, không nói ra sự thiếu thốn trong gia đình ….Tuy nhiên theo mình nghĩ, khi ông bà cha mẹ nhìn thấy con cháu hồn nhiên vui chơi trong mấy ngày Tết thì chắc cũng làm an ủi cho ông bà cha mẹ nhiều, xin ông bà cha mẹ hiểu cho và tha thứ cho nỗi vô tư của trẻ nít…

Khi mấy anh em mặc quần áo mới xong xuôi thì bà ngoại và vú cũng thay quần áo chỉnh tề để chờ mấy anh em mình đến chúc mừng tuổi và điều quan trọng đối với tụi trẻ nít mình là được lãnh tiền lì xì. Trước Tết vài ngày, bà ngoại và vú đã đổi nhiều tờ tiền giấy mới tinh, chưa có lằn xếp để dành cho việc lì xì cho con cháu. Khi lãnh tiền đâu đó xong xuôi, thường mình nhớ là có các tời giấy 10 và 20 đồng, tiền bạc cất kỷ vào bóp và để trong túi xong thì đi tới đi lui trong nhà chờ sáng rỏ ra một chút để cả nhóm anh em mình sẽ kéo tới nhà má Hai chúc Tết và cũng để lãnh tiền lì xì…Theo tục lệ người mình thì ngay ngày Tết, người ta không dám đi tới nhà người khác sớm quá nếu không có dự tính trước, tục đi tới nhà người khác để chúc Tết và thăm viếng gọi là « đầu năm xông đất »…Muốn đi tới nhà người quen biết ngay trong giờ phút đầu năm như vậy phải có sự thỏa thuận của đôi bên, vì khi mình đến nhà người ta như vậy là phải đem đến sự tốt đẹp cho người ta suốt năm nên phải thận trọng…Mình còn nhớ ngày xưa ông ngoại mình có nhiều người bạn cao tuổi thường đến nhà chơi, trong đó có một ông tên là Của, tuổi cũng ngang với tuổi ông ngoại mình, ông Của nhà ở gần chùa Phật Đường (đường Chi Lăng) và có người con trai rất cao lớn tên là bác Khương (bác Phạm Đình Khương, thường gọi là bác Năm Bé, nhà làm nghề đồi mồi), hằng ngày bác Khương thường chạy chiếc xe đòn dông dạo phố ở Hà Tiên và bác Khương nầy cũng là bạn thân của thầy Trương Minh Hiển và thầy Trương Minh Đạt…Vì ba của bác Khương tên là Của nên ông bà ngoại mình thường nói với ông là đầu năm ngay ngày Tết mời ông cứ xuống nhà mình trước để xông đất, vì đúng như theo ý nghĩa tên của ông, tức là đem của cải đến cho nhà mình…

Trở lại việc chuẩn bị đi đến nhà má Hai để chúc Tết và lãnh tiền lì xì…Đến đây mình phải giãi thích cái từ xưng hô « má hai »…Ở nhà mình sao cái gì cũng hơi khác với người ta, má hay mẹ thì lại gọi là « vú », còn dì Hai thì lại gọi là má Hai. Thật ra má Hai là để chỉ người dì thứ hai, tức là người chị hai của má mình. Ngày xưa ông ngoại mình vốn là người có gốc gác người Tàu, tên ông ngoại có hai chữ thôi, Trần Đệ, người quen biết ở Hà Tiên gọi thân mật là ông Tỹ Tôm vì ông rất cao và lưng hơi cong như người ta thường nói lưng tôm…Ông ngoại có một bà ngoại trước và sanh ra một người con gái tên là bà Trần Thị Hương tức là má Hai của tụi mình. Má Hai là má của các anh chị bạn dì với mình như anh Lê Quang Chỉnh (anh Hiển, đã mất rồi), chị Lê Thị Phượng (chế Thìn), anh Lê Quang Chánh, chị Huỳnh Thị Huệ, chị Huỳnh Thị Kim, anh Huỳnh Ngọc Sơn và Huỳnh Hồng Quang (Út, đã mất rồi)… Sau đó khi bà ngoại trước mất thì ông ngoại gặp bà ngoại mình từ Châu Đốc vào Hà Tiên đi cúng chùa Phật Đường và hai người cũng có một người con gái duy nhất là bà Trần Thị Xuân Lan tức là má của mình. Như vậy má mình kêu má Hai là chế, tức là dì hai của mình, và thay vì kêu dì Hai cả anh em nhà mình lại kêu là má Hai theo thói quen và cách dạy xưng hô của nhà mình.

Hồi xưa nhà của má Hai ở xóm Đông Hồ, ở trên đường Chi Lăng, khoảng giữa hai con đường Tô Châu và Đông Hồ, từ ngả tư Chi Lăng-Tô Châu nhìn xuống Đông Hồ thì căn nhà nằm bên trái, cách nhà thầy giáo Lộc vài căn. Sau khi anh em mình chúc Tết và lãnh tiền lì xì ở nhà xong rồi thì chờ trời sáng ra một chút thì cả bọn kéo tới nhà má Hai. Má Hai là người rất vui tánh và bình dân, rất thương con cháu. Khi cả bọn tới nhà má Hai thì má Hai rất vui không câu nệ về tục lệ xông đất gì cả, má Hai kêu cả bọn vô nhà, xếp hàng và má Hai lì xì cho mỗi đứa vài tờ giấy bạc cũng mới tinh…Ngày xưa khi còn nhỏ anh em mình thường tới nhà má Hai vui chơi với anh chị em bạn dì là Sơn, Quang và chế Huệ, chế Kim…Nhiều năm sau, nhà của má Hai bán cho người khác và má Hai cũng mua một căn nhà khác cũng ở gần đó, nhà mới nầy ở trên đường Tô Châu, đối diện với căn nhà xinh đẹp của thầy Hứa Văn Vàng, nếu tính về phía ngả tư đường Chi Lăng-Tô Châu thì căn nhà mới của má Hai kế nhà của Trần Lệ Hằng và nhà của người đẹp Phan Kiều Dũng…Khi gia đình má Hai dọn về căn nhà mới nầy thì mấy anh em mình cũng vẫn thường xuyên tới nhà má Hai vui chơi như trước, căn nhà mới nầy rộng hơn nhà cũ, bên hông nhà cũng có đất dư và phía sau nhà có thể nhìn thấy tới phía sau của chùa Phước Thiện.

Khi còn nhỏ, sau một hai ngày Tết thì bà ngoại cũng có dẫn mấy anh em mình đến thăm nhà cậu Hai Lộc, cậu Hai Lộc tức là thầy giáo Nguyễn Văn Lộc, ba của chị Nguyễn Ngọc Hà và chị Nguyễn Ngọc Hằng (lúc đó chị Ngọc Hà còn là học sinh, chưa là phu nhân của thầy Nguyễn Văn Nén). Số là nhà mình có bà con với thầy giáo Lộc, mình kêu thầy là cậu Hai. Còn bên nhà của bạn Lý Mạnh Thường thì có bà con với bà giáo Lộc (như vậy nếu mà tính chất « bà con » là một quan hệ nhị thức và có tính chất dẫn truyền hay bắc cầu = relation transitive, thì mình và bên gia đình Lý Mạnh Thường cũng có bà con với nhau, vì A « bà con » với B và B « bà con » với C thì A cũng « bà con » với C !!). Nhà của cậu Hai Lộc ở trên đường Chi Lăng, gần về phía Đông Hồ, mình còn nhớ khi bà ngoại dẫn mấy anh em đến nhà thì gặp cậu Hai và mợ Hai, cậu và mợ rất vui vẻ và rất thích trẻ con tụi mình, cậu nói với chị Ngọc Hằng mang ra một cái hộp tròn lớn có nhiều ngăn, trong đó có đủ bánh mứt cho mấy anh em mình ăn…

Trong ngày mùng một Tết thì trưa trưa một chút, mấy anh em mình cũng kéo tới nhà hia Phón để mừng tuổi và cũng để lãnh tiền lì xì…!! Vì ông ngoại là gốc người Tàu nên nhà mình có bà con thân thiết với gia đình của hia Phón. Hia Phón có tên chánh thức là Thái Văn Bằng, hia là con của ý Hai Láng (dì Hai láng), mình kêu bằng ý Hai và kêu hia Phón là Hia. Má của mình thì kêu ý Hai bằng chế. Trong những năm còn trẻ nít, bà ngoại thường dẫn mấy anh em mình tới nhà để thăm hỏi ý Hai và A Tiểu là ba của hia Phón. Nhà của ý Hai ngày xưa ở ngay gần góc đường Lam Sơn-Mạc Công Du, đối diện với nhà ông Tám Trọng sơn sửa xe đạp. Thường thường là buổi tối thì bà ngoại và mấy anh em mình tới nhà hia Phón, mấy đứa mình thì ngồi chơi trên bộ phản gỗ rất lớn, mình ưa nhìn trên vách xem các tranh ảnh lộng kiếng gồm 4 tấm lớn và dài thành một bộ có hình hoa cảnh và chim chóc…Hia Phón lấy cái tập nhạc chép tay của hia cho tụi mình xem, và hia đem cây đờn mandoline ra chơi cho tụi mình nghe. Nhà của ý Hai rất dài sâu ra phía sau, có nhà trước, nhà giữa và một căn nhà sau dùng để nấu bếp và ăn cơm rất rộng, phía sau nữa thì có một con hẻm nhỏ. Ngoài ra ý Hai còn có một người em trai tên là Dương, mình kêu là củ Dương, củ Dương là ba của anh Giang Văn Chương, anh Chương thì ở Hà Tiên ai cũng biết hết cả, vì anh có mang bệnh tâm thần, nhưng rất hiền và vui tánh, không phá phách ai cả. Khi tới chơi ngày Tết nhà hia Phón thì hia dọn thịt kho, cơm và nước ngọt mời mấy anh em mình ăn,…hia thường nói dùng đi bé,…dùng cơm đi bé Ba….

Mình cũng còn nhớ rỏ có một hôm đó khi đến nhà ý Hai chơi thì được nghe tin là củ Dương mất rồi, vì thời đó củ Dương đi chơi hay là đi làm việc gì đó ở Long Xuyên và hia bị té sông ở Long Xuyên chết. Còn A Tiểu là ba của hia Phón thì mình cũng nhớ là hổi nhỏ có một đêm đó, anh Chương chạy tới nhà mình nói với ông ngoại là A Tiểu mất rồi… Ý Hai có một cái tiệm nhỏ ở bên hông nhà lồng chợ Hà Tiên, phía bên đường Tham Tướng Sanh, hơi đối diện với tiệm Hiệp Lợi của nhà em Trần Tố Chinh. Hồi nhỏ bà ngoại và vú thường kêu mình ra mua dầu ăn, nước tương, nước mắm, dầu lửa ở tiệm của ý Hai. Tiệm của ý Hai có tên hiệu là Thành Hưng, mỗi lần ra mua như vậy ý Hai rất vui và rất tử tế với mấy anh em mình, ý Hai thường hay kéo lại nói nhỏ để căn dặn đừng đi chơi xa nhà, đừng theo đứa nầy đứa nọ, cứ ở nhà lo học cho mẹ được yên tâm…Những ngày cúng giỗ tại nhà mình, ý Hai lúc nào cũng tới nhà mình để tham dự cúng kiến. Còn hia Phón thì ở Hà Tiên ai cũng biết vì hia có tham gia rất nhiều hội hè của người Hoa. Hia cũng có thực hành nhiều môn thể thao, hồi đó tới nhà hia mình rất thích ngắm chiếc xe đạp loại xe đạp đua của hia, chiếc xe có hai cái bánh to mà võ xe thì nhỏ xíu và cái tay cầm có hai bên cong vòng về phía dưới, khi ngồi xe đạp phải khom lưng để hai bàn tay cầm đúng vào hai chỗ cong vòng nầy.  Hia thường hay chơi đánh bóng chuyền tại sân trước Chi Thú Y ngày xưa, hia chơi bóng chuyền rất hay, hia cũng đánh ping pong hay lắm. Hia có nghề vẽ họa rất xuất sắc, mỗi khi nhà nào hai bên chợ có đám tang thì hia tới ngay để vẽ trang trí bằng mực Tàu đen trên mấy miếng vải trắng dùng làm phong cho bàn thờ. Có một lần ngày xưa khi mình còn học Tiểu Học, ở trường có phong trào cho học sinh vẽ hình để dự thi, hia Phón tới nhà mình và chấm bút vẽ bằng màu nước phát họa cho mình vài nét, hia nói hiện nay đang có chiến dịch « Ấp Chiến Lược » nên chọn đề tài về Âp Chiến Lược, hia vẽ một cái đồn cao chung quanh có hào sâu và chông gai ngăn trở…

Trở lại chuyện « ăn Tết » trong những ngày thơ ấu, sau khi đi mừng tuổi và lãnh tiền lì xì xong xuôi thì mấy anh em mình kéo ra chợ để có dịp « xài » số tiền nầy…Hồi đó trong ngày mùng một Tết thì chợ cũng có nhóm họp, phía ngoài mặt bắc của chợ thì có nhiều gian hàng bán hột vịt, bì bún..v..v…Anh em mình ghé lại gian hàng hột vịt lộn của chị Tuyết, hồi nhỏ mình không biết ăn hột vịt lộn, chỉ kêu hột vịt trắng thường và lột vỏ chấm muối tiêu mà ăn thôi, còn anh Hai Dõng hình như biết ăn hột vịt lộn…Cứ đi chơi vòng vòng rồi lại thỉnh thoảng ngồi xuống mấy cái sạp của chế Thu, chị Tuyết mà tiếp tục ăn hột vịt như vậy…

Hồi đó cũng còn nhỏ lắm nên không dám chơi pháo, có năm thì cũng dám mua cây súng lục bằng sắt để bắn pháo cuồn, đó là loại pháo quấn thành một cuồn tròn nhỏ, mình lắp vào súng và cầm súng bấm cò cho nổ từng viên pháo nhỏ dán trong cái băng pháo…Còn về cây pháo phải châm ngòi cho nổ thì mấy anh em mình không dám chơi, mấy năm sau khi lớn lên nhiều rồi mới dám chơi tới pháo cây đó. Nhớ có lần đi chơi vòng vòng chợ khi mà Tết đã qua tới mấy ngày mùng hai, mùng ba, có một lúc thì gặp vú và chế Thìn, má Hai đang đi đâu đó trên khúc đường Mạc Công Du, mình chạy theo kêu vú để xin tiền, vú móc cho một lần hai đồng luôn…Lúc đó vì là Tết nên vú cho nhiều như vậy vì trong những ngày thường trong năm, mỗi lần xin tiền thì vú chỉ cho năm cắc mà thôi…

Có một lần sau khi có nhiều tiền lì xì rồi, mấy anh em mình kéo lên nhà bên nhạc phụ của anh hai Hiển (tức là anh Lê Quang Chỉnh, anh bạn dì với mình), chị hai tên là chị Mùi, nhà chị ở trên khúc đường Lam Sơn phía cuối đường, gần nhà ba má bạn Lý Cui và hơi xéo xéo nhà anh Đỗ Thành Tâm. Gia đình bên nhà chị hai rất tử tế, vui vẻ tiếp đón mấy em út của anh hai lên chơi, cũng được ăn bánh tét và uống nước ngọt. Sau đó khi ra về, thay vì về thẳng nhà mình ở phía chợ, mấy anh em mình ghé lại một sòng bầu cua cá cọp của mấy đứa nhỏ trong xóm gần đó…và bắt đầu ngứa tay, tham gia vào đặt tiền để chơi…Lúc đầu ăn thua lai rai không có khuynh hướng rỏ rệt, nhưng từ từ về sau, càng đánh càng thua đậm, không biết xui hay tại sao,…cuối cùng thì mấy anh em mình bị thua hết cả tiền lì xì trong ngày Tết đó, trong túi không còn một tấm giấy bạc mới nào nữa cả…Không hiểu tại sao mà chơi bầu cua cá cọp mà lại thua liên tục như thế, vì khi lắc ba con đê thì nó hiện ra hên xui mà thôi đâu có lẽ gì thua liên tục…Sau nầy khi gặp bạn Lê Phước Dương kể lại thì nghe tụi con nít chủ sòng chơi đó nói cho Lê Phước Dương biết là tụi nó chơi ăn gian, vì mỗi lần tụi nó chờ mình đặt tiền vào chỗ nào xong xuôi rồi thì nó cầm con đê lên và cố tình lấy ngón tay có dính bánh tét ấn mạnh ngay ở mặt mà có hình mình đặt tiền để cho cái mặt hình nầy dính chặt xuống đáy dĩa như thế thì cái hình mà mình đặt đó không bao giờ quay lên trên, tức không có ra được, nên cứ thua là thua…Bây giờ nghĩ lại chắc nhóm nầy là « đàn em » của bạn Lê Phước Dương đây….( phải không bạn Dương…  🙂 !!…). Còn chưa hết chuyện, sau khi bị « cháy túi » hết cả thì ba anh em mình mò về nhà với bộ mặt tiêu nghiểu, bà ngoại và vú nhìn thấy thì biết có điều gì rồi nên hỏi mình, mình bắt buộc phải nói ra sự thật, bà ngoại kêu mình đưa cho xem cái bóp tiền, mình móc bóp ra đưa cho bà ngoại xem, bà ngoại vạch bóp ra thấy trống rổng liền ném cái bóp xuống đất và rầy la mấy anh em mình …Năm đó quả thật là không may mắn, dân khờ khạo « hiền lành » mà lại dám đi chơi cờ bạc đánh bầu cua cá cọp với nhóm con nít thiện nghệ thì thua nặng là chắc rồi…Câu chuyện nầy tới ngày nay bạn Lê Phước Dương vẫn còn nhớ, và ở nhà mình thì ai cũng biết…

Cái vụ đánh bầu cua cá cọp nầy có lẽ là do ảnh hưởng của một năm đó ở Hà Tiên, vì vào một năm đó không biết có một đơn vị lính ở đâu và vì lý do gì mà họ kéo về đóng quân gần Hà Tiên rất đông (hồi đó người ta nói là họ là gốc người Nùng, họ nói một thứ tiếng gì rất lạ, không phải tiếng Việt cũng không phải tiếng Hoa…) và nhóm người lính nầy rất thích chơi các trò chơi may rủi ăn tiền. Vì lúc đó là thời gian cận Tết, người ta tổ chức các sòng chơi cờ bạc ăn tiền rải rác ở hai bên khu chợ Hà Tiên, nhất là ở trên lề đường Lam Sơn, khúc bên hông tiệm bác Ba Góp, và bên lề đường bên hông nhà Ông Tàu Lái, đối diện tiệm đồi mồi Phan Văn Thân. Lúc đó mình còn nhỏ mà lại rất mê đứng xem người ta chơi các loại cờ bạc nầy, thông dụng nhất là các sòng bầu cua cá cọp (dành cho mấy đứa trẻ con) và các sòng Tài Xỉu (Lớn, Nhỏ), các sòng nầy là dành cho toàn người lớn có máu cờ bạc đậm, người ta đặt tiền và ăn thua là tiền của người ta mà tụi con nít như mình lại đứng xem mê mẩn, có đêm ghiền xem tới khuya lắm mới chịu về nhà, có khi về nhà lại bị bà ngoại và vú rầy vì đi chơi khuya quá, sáng hôm sau cũng ra đứng xem tiếp…Về cái môn chơi Tài Xỉu là người ta dùng ba cục xí ngầu (cục lúc lắc), mỗi cục có sáu mặt khắc từ 1 đến 6 chấm. Khi người ta lắc xong, mở cái tô úp ra thì làm kết quả trò chơi là tổng số điểm của ba con xí ngầu quay mặt lên trên, nếu tổng số điểm từ 4 đến 10 thì là Xỉu và từ 11 đến 17 thì là Tài. Người chơi thì cứ đặt tiền vào ô Tài hay là Xỉu…Chỉ có ăn hay thua 50/50…Tuy nhiên nếu có hiện ra ba con số giống nhau cùng một lúc (thí dụ cả ba mặt của con xí ngầu đều là 2 hay là cả ba mặt đều là 5,…) thì nhà cái ăn hết tất cả, dù cho tổng số là nhỏ hay lớn, vì thế khi tổng số là 3 ( ba mặt của ba xí ngầu đều là 1) hay là 18 (ba mặt xí ngầu đều là 6) thì không được xem như là Xỉu hay Tài mà là nhà cái ăn hết…Nhớ lại Hà Tiên năm đó là năm rất đặc biệt, người ta chơi cờ bạc suốt những ngày trước và sau Tết như vậy…Những năm tiếp sau đó thì không có hiện tượng nầy vì nhóm đơn vị người lính Nùng đó đã dời đi nơi khác.

Trong những ngày « ăn Tết » như vậy, còn có hai việc không thể thiếu là đi tiệm chụp hình để chụp hình làm kỷ niệm vì lúc đó là lúc mặc toàn quần áo mới đẹp và tổ chức cả nhà đi bãi biển Mũi Nai chơi. Sau ngày mùng một, mùng hai thì người ta bắt đầu đi chụp hình ở các tiệm chụp hình rất đông. Hà Tiên thời đó có tiệm Phương Dung ở đường Trần Hầu, tiệm Đức Quang ở đường Tuần Phủ Đạt và sau đó có thêm tiệm Tô Châu ở đường Chi Lăng. Hồi xưa người ta rất thích chụp hình ở tiệm chụp hình, ngày xưa chụp hình phải dùng phim, chụp rồi phải rửa phim và cho hình ra trên giấy nên rất ít người có máy chụp hình cá nhân. Vã lại muốn chụp cho đẹp và nhất là để không bị hư làm tốn kém phim chụp hình nên khi chụp phải có ít nhiều tay nghề, vì thế phải đi chụp ở tiệm cho chắc chắn là có hình đẹp. Nếu trước khi Tết các tiệm may quần áo rất đắt hàng đặt may thì sau khi Tết đến phiên các nhà chụp hình hoạt động rất mạnh vì khách đến chụp hình rất đông…Mỗi tiệm đều có thiết trí một gian phòng nhỏ (bây giờ gọi là studio) có màn vẽ hình phong cảnh làm nền, có vài vật dụng như chậu hoa lá để trang trí cho người chụp, cũng có sẳn một cây đờn thùng để cho khách ôm đờn làm dáng khi chụp hình. Thường thường là do óc thẩm mỹ của người thợ cố vấn cho khách làm kiểu nầy hay dáng nọ để chụp …Lúc còn nhỏ mình rất thích đứng trước các tủ kiếng lớn của mấy tiệm chụp hình nầy để ngắm xem những khuôn mặt quen thuộc được tiệm chọn để chưng hình làm mẫu…Đa số là những khuôn mặt quý cô quý chị xinh đẹp của Hà Tiên, hình nữ nhiều hơn hình nam…Mỗi lần đứng xem hình mẫu như vậy, mình thường tự hỏi ủa sao không thấy hình của tui..!!.

Nhà mình cũng có dẫn mấy anh em mình đi chụp hình Tết ở tiệm Phương Dung, có hình bốn anh em đứng chụp trước một phong màn vẽ cảnh một phòng khách có trang trí bông hoa…Hồi xưa mình cũng thường đứng xem mấy người thợ chỉnh sửa phim hình, người ta ngồi trước một cái thùng to có một chỗ để gắn cái phim chụp hình vào và có rọi ánh sáng phía sau để thấy rỏ hình ảnh trắng đen trên phim, dĩ nhiên là hình theo kiểu âm bản tức là chỗ màu đen khi rửa hình ra sẽ thành màu trắng và ngược lại. Người ta dùng một cây cọ rất mịn để chấm phá vài nét trong phim để cho hình được rỏ nét thêm các chi tiết và cũng để loại bỏ những chấm đen không cần thiết khi in hình ra giấy.

Về việc đi bãi biển Mũi Nai chơi trong mấy ngày Tết thì năm nào nhà mình cũng có tổ chức đi. Lúc đó mình cũng còn rất nhỏ, nhà thường kêu xe lam để đi. Có vú, chế Thìn (Lê Thị Phượng) và anh Huỳnh Ngọc Sơn đi cùng. Hồi xưa bãi Mũi Nai còn khá hoang sơ và rất đẹp, theo thông lệ khi xe vừa đến bãi thì người ta hay đi nhanh đến căn nhà bên trái của bãi trước, gọi là nhà mát, nhà nầy cất bằng cây và lợp lá, không có vách, theo kiểu hình lục giác (hay bát giác, mình quên rồi). Phía dưới căn nhà mát nầy thường có một mũi nhô ra có đá lỏm chỏm, vậy mà ở nơi nầy người ta thường xuống đứng trên các bờ đá để chụp hình. Mình vẫn còn một tấm hình rất xưa chụp tại chỗ nầy, trong đó có vú và chế Thìn, vú và chế Thìn mặc áo dài trắng, còn ba anh em mình thì năm đó vú có may cho mỗi đứa một bộ quần áo gồm một cái áo theo kiểu 3 túi và có bâu lật với chiếc quần sọt ngắn, chân thì mang dép, còn anh Huỳnh Ngọc Sơn thì mặc bộ pyjama sọc mới tinh, nói là pyjama nhưng thuở xưa cha mẹ thường cho con mặc bộ pyjama mới ra ngoài chứ không nhất thiết là pyjama là chỉ để mặc ngủ trong nhà…, chân anh Sơn thì mang một đôi giầy bata trắng…Khi xem lại những hình ảnh xa xưa mang tính chất « ăn Tết  » như vậy mình thấy rất nhớ Hà Tiên của những thời êm đềm, dân cư vừa đủ, mọi người thảnh thơi hưởng an vui ngày Tết, không có cái không khí đông đúc xáo trộn để kịp sống như kiểu thời bây giờ…Cũng may là trong đời sống con người một khi có nhiều người thân đã ra đi, cũng còn có hình ảnh để lại để con cháu đời sau nhìn ngắm và tưởng nhớ….

Còn một việc sau những ngày Tết mình cũng kể ra luôn ở đây cho đầy đủ những hương vị và sinh hoạt của mấy ngày Tết ở Hà Tiên xa xưa. Đó là việc đi cúng chùa. Hà Tiên mình là xứ của chùa chiền…nơi đất Phật. Bà ngoại mình năm nào cũng vậy, đầu tiên là khoảng mùng chín tháng giêng thì đi chùa Phật Đường để cúng sao, trước đó vài ngày có người ở chùa xuống nhà mình quyên tiền và lấy giấy ghi hết tên họ mỗi người trong nhà để đêm cúng sao thầy sẽ đọc tên lên. Lúc đí chùa bà ngoại dẫn hết ba anh em mình đi theo, mình rất thích đi như vậy, vì sau khi cúng sẽ có chè và xôi ăn rất ngon. Rồi tiếp theo đó một ngày khác bà ngoại cũng thuê một chiếc xe lôi và dẫn ba anh em mình cùng đi, lần nầy là đi một vòng lớn rất nhiều chùa, đầu tiên là năm nào cũng đi chùa Bà Cửu Thiên trước (chùa Bà Cửu Thiên ở bên trái đường Phương Thành, khoảng hướng ra phía Ấp Chiến Lược hồi xua, ngày nay chùa đã bị phá hủy). Tiếp theo đó là chùa Phù Dung, chùa Lò Gạch, chùa Tam Bảo, ở mỗi chùa nào bà ngoại cũng kêu tụi mình vô phía sau nơi quý bà cô ở để chào hỏi và chúc Tết. Mấy bà cô giữ chùa đó rất cao tuổi, và rất thương con nít, lần nào quý bà cũng vò đầu tụi mình và khen ngoan…

Thầy cô và các bạn thân mến, đó là chuyện kể cũng đại khái những kỷ niệm « ăn Tết » của thời thơ ấu của mấy anh em mình khi còn nhỏ ở Hà Tiên. Sau nhiều năm qua, khi vào bậc Trung Học, có nhiều bạn bè thân thiết thì « ăn Tết » có vẽ người lớn hơn, không có trò chơi bầu cua cá cọp hay đi ăn hột vịt trắng như ngày xưa. Lúc nầy thì cũng tụ tập với bạn bè cùng lớp, cùng nhóm và đi ăn uống, đí đến nhà thầy cô để chúc Tết và đến nhà bạn bè để chơi văn nghệ đờn ca…Đó là chuyện sau nầy, đây chỉ trong chủ đề « ăn Tết » của thời thơ ấu mà thôi…Mong ràng thầy cô và các bạn kiên nhẫn đọc bài và góp ý nhé. Đến đây cũng tạm đủ xin dùng bút và chúc tất cả quý độc giả một cái Tết Tân Sửu thật an lành, vui tươi và hạnh phúc…

Trần Văn Mãnh, Paris, mùng 24 tháng chạp năm Canh Tý, tức ngày thứ sáu, 05/02/2021

Hình chụp khi nhà đi chơi bãi biển Mũi Nai nhân mấy ngày Tết. Từ trái qua phải: Hai người lớn áo dài trắng là: Bà Trần Thị Xuân Lan (má của mình), chế Thìn (chị Lê Thị Phượng, chị bạn dì), bốn trẻ nít là: Trần Văn Mãnh (anh Ba, tác giả), Trần Văn Phi (em thứ Tư), Trần Văn Dõng (anh Hai) và Huỳnh Ngọc Sơn (anh bạn dì)

Chùa Phước Thiện – Hưng Phương Tự (Hà Tiên)

A/ Ký ức về chùa Phước Thiện Hà Tiên:

Thầy cô và các bạn thân mến, ở Hà Tiên có một ngôi chùa tuy không lớn lắm nhưng là nơi xuất phát rất nhiều kỷ niệm xưa đối với người dân Hà Tiên, nhất là những người cư ngụ chung quanh chợ Hà Tiên, đó là ngôi chùa có cái tên quen thuộc là chùa Phước Thiện. Thật vậy đúng như tên của ngôi chùa, chùa Phước Thiện là nơi quý thầy chuẩn bệnh, phát thuốc cho người dân Hà Tiên, mỗi khi có người đến xin được trị bệnh. Quý thầy ở chùa Phước Thiện thực hành chuẩn trị bệnh theo các phương thuốc Nam, một ngành y học cổ truyền của dân tộc Việt Nam.  Nhà mình biết nhiều về ngôi chùa nầy, vì chùa tọa lạc ở góc đường Bạch Đằng-Chi Lăng (đó là vị trí chánh thức của ngôi chùa, vì tiền thân của ngôi chùa vốn ở một nơi khác cũng trong khu phố Hà Tiên, sẽ nói thêm trong phần sau). Lúc mình còn nhỏ, tuy nhiên cũng khoảng trên dưới 12 hoặc 13 tuổi, lúc ngôi chùa vừa được xây cất xong, mấy anh em nhà mình thường hay lên chùa xem bác Tư Đài (họa sĩ Phụng Đài, ngày xưa nhà ở đường Đống Đa, thân phụ của bạn Hồ Văn Mạnh, học chung bậc Tiểu Học với mình) vẽ hình một chậu hoa sen thật to rất đẹp ngay trước vách tường chánh của ngôi chùa, hình ảnh chậu hoa sen nầy là biểu tượng của môn phái Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội mà chùa Phước Thiện thuộc về môn phái nầy. 

Mỗi một dịp được nghỉ hè khoảng ba tháng, ông bà ngoại mình thường kêu mấy anh em mình lên chùa Phước Thiện (vì chùa rất gần nhà mình) làm công quả. Những việc phải làm giúp cho chùa với tên gọi là làm công quả tức là chặt thuốc, phơi thuốc..v..v….Vì chùa Phước Thiện chính là trụ sở của Hội Quán do quý thầy tu, cư sĩ, y sĩ chuẩn bệnh, phát thuốc cho dân, nên thường ngày nhà chùa phải sản xuất ra các phương vị thuốc Nam. Không biết cây, lá có vị thuốc quý thầy kiếm ở đâu ra, nhưng mỗi ngày mấy anh em mình lên chùa và mỗi đứa ngồi một chỗ, có một miếng thớt bằng cây rắn chắc, dùng một cây dao cũng khá lớn và cứ chặt những nhánh cây có vị thuốc ra thành từng khoanh nhỏ để khi nấu thuốc dễ trích ra các chất thuốc chứa trong nhánh cây đó, mỗi khoanh chỉ mỏng chừng một phân thôi, và phải chặt cho đều, khéo tay theo kiểu thành một khoanh nhỏ và theo chiều xéo chứ không chặt thẳng góc với chiều dài của nhánh cây. Mỗi ngày cứ lên chùa, ngồi xếp bằng, cứ chặt các nhánh cây thuốc thành từng khoanh nhỏ như vậy, sau đó, giúp quý ni cô và quý thầy trải các khoanh cây thuốc chặt nhỏ như vậy ra trong các sàng, nia, nong (tức là các thứ rổ lớn đan bằng tre) để đem phơi cho thật khô ngoài sân chùa. Khi thuốc được phơi thật khô, đúng ngày, thì giúp quý ni cô, quý thầy, phân chia thuốc vào các hộc tủ nhỏ trong phòng lớn sau chánh điện, nơi quý thầy chuẩn bệnh và phát thuốc. Mỗi hộc tủ nhỏ chứa thuốc đều có giấy nhãn ghi tên thuốc rất rỏ ràng, có tên cây thuốc thì rất bình dân như: Cà gai leo, cỏ hôi, chó đẻ,…v..v.., có tên thì theo chữ Hán Việt như; Đình lăng, đan sâm, mã đề, địa liền, trần bì…v..v…Mình cũng muốn học thuộc tên các cây thuốc đó nhưng rất khó nhớ…Khi quý thầy chuẩn bệnh và sau đó bốc thuốc thì quý thầy theo một toa thuốc vừa viết ra trên giấy, và trải một tờ giấy rất lớn trên bàn, sau đó thầy cứ theo tên các vị thuốc đó đi đến mỗi hộc tủ và bốc ra các vị thuốc đặt trên tờ giấy, sau đó thầy gói tờ giấy lại rất khéo thành một gói thuốc dạng vuông vức, thường thì thuốc Nam phải uống nhiều lần mới có công hiệu nên quý thầy cho một lần hai gói thuốc, gọi là hai thang thuốc, dùng dây cột hai thang thuốc lại và người bệnh xách hai gói thuốc đó về nhà, phải mua thêm một cái siêu đất (vì siêu phải bằng đất mới tốt và hợp với thuốc), bỏ thuốc vào siêu và cho nước vào rồi nấu cho sôi để trích ra các vị thuốc chứa trong cây thuốc, sau đó chờ hơi còn ấm thì uống thuốc, thuốc Nam cũng rất đắng phải chịu khó uống…, mình cũng có từng uống qua các thang thuốc Nam rồi, đắng lắm, phải uống từng ngụm nhỏ thôi từ từ mới uống hết chén thuốc…Nhiều khi rảnh rổi, có một thầy cư sĩ còn rất trẻ, khoảng trên dưới 25 tuổi thôi, thầy thường hay trò chuyện với mình, mình còn nhớ có lúc thầy hỏi học lớp Nhất ở trường Tiểu Học với thầy nào, mình còn nhớ và trả lời là học với thầy Nguyễn Văn Pho, sau khi nghe câu trả lời, thầy cư sĩ đó nói « Còn tui là ông Phò anh của ông Pho đó!! », lúc đó vì còn nhỏ tuổi mình cũng bán tín bán nghi, không biết nhận ra đó là câu nói đùa cho vui mà thôi…

Còn một kỷ niệm khác rất vui nữa, mình còn nhớ rất rỏ, thời gian đó trong chùa cũng có một ni cô, ni cô cũng tương đối còn trẻ tuổi, chắc khoảng trong tuổi 20, 30 thôi, ni cô có nhờ mấy anh em mình chép lại nguyên một cuốn sách dùm cho ni cô, tức là mình làm vai trò như một cái máy « photocopie » vậy, vì thời đó chưa có máy chụp hình giấy tờ như loại « photocopie »…(Thời đó ở Chi Thông Tin Hà Tiên người ta muốn xuất bản tập san tin tức hay văn nghệ cũng chỉ dùng phương pháp quay « ronéo » để có được nhiều bản chứ cũng chưa có máy làm « photocopie » như sau nầy). Bây giờ kể tiếp việc chép nguyên bản cuốn sách cho ni cô ở chùa, cuốn sách nầy là cuốn viết về các mẫu làm đơn, mẫu viết thư dùng cho mọi người, nhất là học sinh, sinh viên hay người ngoài đời sống xã hội. Thật vậy, cuốn sách có khá nhiều trang, mình không nhớ là bao nhiêu trang, nhưng có đủ các chương; mẫu đơn xin việc làm, mẫu viết thư chúc mừng bạn bè, xin vay nợ hay xin hoản nợ..v..v…Mình và anh Trần Văn Dõng nhận việc làm nầy giúp cho ni cô có được một cuốn sách giống như vậy nhưng dưới hình thức chép tay lại, có lẽ ni cô mượn cuốn sách nầy của ai đó và muốn có một bản giống y như vậy để dùng trong việc viết thư từ…Mỗi ngày ở nhà, anh em mình lên cái gác trên lầu, chỗ có đặt bàn học hằng ngày, cứ chép mỗi ngày vài tờ trong cuốn sách đó, được ba bốn ngày, lại phát hiện trong cuốn sách tới chương « Mẫu viết thư tình »…!! Mình thấy hơi lạ vì không biết có hợp với việc dùng sách của ni cô không, mình đem việc nầy nói lại trong nhà và hỏi ý kiến, trong nhà mình có người chị bạn dì tên là chế Thìn (tên chữ là Lê Thị Phượng), chế nói thôi đi, ni cô thì chắc không cần các mẫu thư tình gì đâu, vậy khỏi chép chương nầy đâu…Nhờ vậy mình cũng bỏ hết một chương dài có các mẫu thư tình nầy, nên cuối cùng cũng hoàn thành việc công quả cho ni cô là đã chép xong lại cuốn sách cần dùng cho ni cô (chỉ thiếu chương về mẫu các thư tình, phải biết sau nầy có cần dùng các mẫu nầy cho việc riêng của mình thì mình đã chép riêng lại phần nầy để dành rồi,…!!). Đó là một kỷ niệm thật vui trong thời gian anh em mình làm công quả trên chùa Phước Thiện. Thời gian trôi qua, không còn nhớ anh em mình làm công quả cho đến bao nhiêu lần nghỉ hè, nhưng một thời gian sau thì cũng thôi, không còn lên chùa làm công quả nữa, tuy nhiên ngôi chùa Phước Thiện ở Hà Tiên đã gây cho mình rất nhiều ấn tượng tốt đẹp, ngay lúc còn nhỏ đã được tiếp xúc với quý thầy, cô, cư sĩ, y sĩ trong ngành thuốc Nam và đã đươc thấm nhuần trong cái không khí từ bi, yên tỉnh của nhà chùa.  Từ đó về sau, mỗi lần đạp xe đạp trên đường Bạch Đằng chạy ngang chùa Phước Thiện mình thường hay nhìn vào chùa và cảm thấy rất thích thú vì đã làm được nhiều việc có ích lợi cho nhà chùa, giúp mình tránh được việc đi la cà ngoài chợ hay đi phá người ta…Đó là thời còn nhỏ, sau nầy khi lên bậc Trung Học, mình lại thường theo các bạn đi chơi nhiều hơn, thường là đi chơi văn nghệ, tụ tập dợt hát, dợt đàn, và đi dạo vòng quanh Đài Kỷ Niệm mỗi buổi chiều tối..

B/ Quá trình thành lập và trị sự ngôi chùa Phước Thiện:

Theo thông tin của Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam, tiền thân của ngôi chùa Phước Thiện là một ngôi am nhỏ, do cư sĩ Lê Văn Y lập nên vào năm 1951, trên mảnh đất do một Phật tử địa phương cho mượn, theo trí nhớ của anh Trần Văn Dõng thì cái Am nầy tọa lạc trên đường Đống Đa, khoảng khúc ngả tư đường Mạc Cửu và Đống Đa trở lên phía trường Tiểu Học Hà Tiên. Cái Am nhỏ nầy vừa là nơi tu hành, vừa là phòng hốt thuốc Nam từ thiện. Đến năm 1961, được ông Phán Lịch hiến cúng một khu đất rộng ngay tại góc ngả tư đường Bạch Đăng – Chi Lăng, cư sĩ Lê Văn Y đã cho xây một nhà thuốc Nam từ thiện bằng cây lá lấy tên là “Dân Lập Công Trợ”. Năm 1966, sau khi gia nhập hệ phái Tịnh Độ Cư sĩ, cư sĩ Lê Văn Y đã cho xây dựng lại nhà “Dân Lập Công Trợ” thành Tịnh Độ Hưng Phương tự. Từ đó, chùa Phước Thiện có tên chánh thức là Hưng Phương Tự và thuộc môn phái Tịnh Độ Cư sĩ chủ trương “Phước Huệ Song Tu” vừa thờ Phật vừa hốt thuốc Nam từ thiện cho dân nghèo địa phương.

Chùa Phước Thiện – Hưng Phương Tự tại góc đường Bạch Đăng-Chi Lăng, Hà Tiên. Hình: Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt nam, 2008

Vị trí chùa Phước Thiên – Hưng Phương Tự tại khu phố Hà Tiên. Theo cái nhìn ngày xưa ta có các vị trí chung quanh chùa như sau: 1= Chùa Phước Thiện; 2= Nhà của Bác Sửu thân phụ của anh Lâm Văn Có, Lâm Mỹ Nhung; 3= Nhà của ông Ký Tí (ông Ký Cụi), ông ngoại của Phạm Thị Kim Loan; 4= Nhà của má Hai mình tức nhà của chị Huỳnh Thị Kim, Huỳnh Ngọc Sơn (chị em bạn dì với mình); 5= Nhà của người đẹp Phan Kiều Dũng; 6= Nhà của thầy Hứa Văn Vàng; 7= Nhà của bạn học cùng lớp mình, Hà Mỹ Oanh; 8= Nhà và quán cafe nhạc Ti La của thầy cô Trương Minh Đạt. Bên góc đường Chi Lăng-Tô Châu, ngày xưa còn có một bên là cái giếng nước và một bên là cây me rất to lớn.

Khi bên ngoài ta đi vào chùa bằng cổng chánh thì có một hành lang rất dài cho đến phía sau chùa, thường dùng để phơi các sàng thuốc. Bên ngoài nhìn vào chùa thì phía trái hành lang là chánh điện, sau chánh điện là phòng khám, chuẩn bệnh và phát thuốc, có một cửa hông để đi vào, bên phải hành lang, đối diện với cửa phòng phát thuốc là một gian nhà rộng lớn, dùng để sản xuất thuốc, tức là nơi các đệ tử, quý thầy cô ngồi chặt thuốc.

Năm 1991, cư sĩ Lê Văn Y qua đời. Kế tục trụ trì chùa là cư sĩ Lê Thị Lình. Trong thời gian trụ trì chùa, với công đức của Phật tử địa phương và nguồn tự lực của chùa, cư sĩ Lê Thị Lình đã cho trùng tu nhiều công trình Phật sự trong chùa như xây hàng rào khuôn viên (1993), chánh điện (1996), phòng thuốc nam (1997), nhà hậu Tổ (1999) và nhà trù (2001). Năm 2000, cư sĩ Lê Thị Lình tạ thế. Quản lý chùa hiện nay là cư sĩ Phạm Thị Hiền (pháp danh Diệu Hòa).

Toàn diện ngôi chùa Phước Thiện – Hưng Phương Tự Hà Tiên sau nhiều công trình trùng tu. Hình: Nguyễn Hữu Tâm, 2017

C/ Vài nét về hệ phái Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam:

Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hôi được thành lập vào năm 1934 do Đức Tông Sư Minh Trí (Nguyễn Văn Bồng 1886 – 1958), người gốc Sa Đéc làm bậc lãnh đạo tối cao và Hội quán trung ương gọi là chùa Tân Hưng Long Tự được xây dựng vào năm 1935 tại Phú Định, Chợ Lớn, đến năm 1953 thì hệ phái được công nhận với tên gọi đầy đủ 8 chữ là: Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam. Tôn chỉ hành đạo của Phật Hội là « Phước Huệ song tu, lấy Pháp môn niệm Phật làm căn bản, dùng y đạo làm phương pháp phát triển hội quán ». Vì thế mỗi cơ sở thờ tự được gọi là một Hội quán, mỗi Hội quán đều có phòng thuốc Nam phước thiện, đó là nguồn gốc của tên gọi « Chùa Phước Thiện » mà dân chúng thường đặt cho Hội quán, ngoài ra mỗi Hội quán đều có một tên riêng bắt đầu bằng chữ « Hưng » và kết thúc bằng chữ « Tự ». Chùa Phước Thiện Hà Tiên của chúng ta tên là Hưng Phương Tự », Tổ Đình ngày nay tại Quận 6 thành phố HCM có tên là Hưng Minh Tự, các Hội quán ở các tỉnh có tên như:  Hưng Phước Tự – Long Xuyên, Hưng An Tự – Rạch Giá, Hưng Giác Tự – Vĩnh Long…v…v…

Hình Đức Tông Sư Minh Trí (Nguyễn Văn Bồng) chụp trước bức tranh chậu hoa sen điển hình thường được vẽ ở trước mặt chùa Phước Thiện. Hình: Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam.

Hiện nay, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam có 206 hội quán cũng là 206 phòng thuốc Nam phước thiện ở 21 tỉnh, thành phố; gần 1,5 triệu tín đồ, 4.800 chức sắc, chức việc, 350.000 hội viên; gần 900 lương y, huấn viên y khoa, y sĩ, y sinh; trên 3.000 người làm công việc chế biến thuốc.

Sau đây là một vài hình ảnh do trang face Book của « Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam » chia sẻ cho mình, xin trân trọng cám ơn.

Hình ảnh ngôi chùa Phước Thiện-Hưng Phương Tự (Hà Tiên) và quý vị cư sĩ, đạo hữu chụp vào năm 2018. Hình: do trang fb Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam chía sẻ.

Tài liệu tham khảo: Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội Việt Nam

  Viết xong ngày 25/12/2019 Paris, Trần Văn Mãnh